Nhân loại mãi mãi khắc ghi những cống hiến to lớn của Các Mác - Người đã cùng Ph. Ăng-ghen (Friedrich Engels) xây dựng nên hệ thống lý luận cách mạng và khoa học, là kim chỉ nam, vũ khí tinh thần sắc bén, soi sáng sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức, bóc lột. Nhân kỷ niệm 207 năm ngày sinh Các Mác, chúng ta cùng tìm hiểu những nét chính về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng vĩ đại của ông.
Những nét chính về tiểu sử Các Mác
Các Mác sinh ngày 5/5/1818 ở Tơ-ri-a, vùng Rai-nơ, nước Đức. Cha ông là Luật sư Hen rích Mác - một người có nhân cách liêm chính được cả vùng kính trọng. Từ nhỏ, Các Mác đã bộc lộ phẩm chất thông minh vượt trội. Cậu có khả năng kể lại một cách hình ảnh và sáng tác ra đủ mọi câu chuyện tưởng tượng và các câu chuyện cổ tích, là linh hồn trong các trò chơi của lũ trẻ ở khu phố.
Mùa thu năm 1830, lúc 12 tuổi, Các Mác vào học ở trường trung học Tơ-ri-a. Quá trình học tập, Các Mác đã thể hiện là một học sinh thông minh, độc lập, giàu sức sáng tạo. Trong bài luận văn tốt nghiệp trung học, với chủ đề “Những suy nghĩ của một thanh niên khi chọn nghề”, Các Mác đã khiến thầy cô, bạn bè khâm phục và kinh ngạc khi nói về sự lựa chọn nghề nghiệp trong tương lai. Mác viết: "Nếu một người chọn nghề mà người đó có thể làm được nhiều nhất cho nhân loại thì người đó sẽ không cảm thấy gánh nặng của nghề ấy, không phải một sự vui sướng ích kỷ, hạn chế và đáng thương mà hạnh phúc của người đó sẽ thuộc về hàng triệu người…
Tốt nghiệp trung học, Các Mác vào học khoa Luật trường Đại học Tổng hợp Bon; ngoài việc học tập luật, ông còn say mê nghiên cứu triết học, lịch sử, chính trị. Ngày 15/4/1841, khi mới 23 tuổi, Các Mác nhận được bằng Tiến sĩ triết học với luận án "Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit (Démocrite) và triết học tự nhiên của Êpiquơ (Épicure) tại trường Đại học Tổng hợp Jena.
Tháng 8/1844, Các Mác gặp Ph.Ăng ghen ở Pa - ri, nước Pháp. Bắt đầu từ đây, hai lãnh tụ của cách mạng vô sản thế giới đã tìm thấy sự đồng cảm về tư tưởng và lý tưởng cộng sản, đã tạo nên một tình bạn thủy chung, mẫu mực hiếm có. Tháng 2/1848, Các Mác và Ph.Ăng ghen cùng soạn thảo và xuất bản “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” là văn kiện đầu tiên có tính chất cương lĩnh của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hai ông đã tích cực tham gia các tổ chức cộng sản, tích cực đấu tranh chống xã hội tư sản và tiểu tư sản đàn áp, bóc lột nhân dân lao động; cùng nhau sáng lập ra lý luận về chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản – chế độ mang lại hòa bình, bình đẳng, hạnh phúc cho các tầng lớp nhân dân lao động.
Về gia đình riêng, Các Mác và Gien - ni (người vợ hơn 4 tuổi) quen biết nhau từ hồi còn nhỏ. Gien - ni là con gái của một gia đình dòng dõi quý tộc Đức quyền thế, giàu có, vô cùng xinh đẹp và thông minh, học thức, được nhiều chàng trai con nhà quyền quý theo đuổi. Năm 17 tuổi, Mác đã đính hôn cùng Gien - ni. Tuy nhiên, do có sự chênh lệch về địa vị, tài sản nên mối tình của hai người gặp nhiều khó khăn, sóng gió. Vượt qua tất cả định kiến và ngăn cản, tháng 6/1843, Gien - ni đã kết hôn với Mác sau 7 năm chờ đợi, đã cùng Mác vượt qua bao sóng gió, khổ sở, thiếu thốn trong cuộc đời lưu vong làm cách mạng ở các nước Pháp, Bỉ, Anh... Tình yêu, tình vợ chồng của Các Mác và Gien - ni đã trở thành huyền thoại về tình yêu, tình đồng chí, đức hy sinh, dịu hiền, thủy chung. Các Mác và Gien - ni có 3 người con gái và 2 người con trai. Các con của ông bà sau này đều trở thành những nhà hoạt động cách mạng vô sản nhiệt thành như cha mẹ…
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng trong sự truy đuổi gắt gao của kẻ thù, trong điều kiện sống lưu vong, nghèo khổ đã làm cho sức khỏe của gia đình Các Mác ngày càng suy yếu. Ngày 2/12/1881, Gien - ni mất. Ngày 14/3/1883, Các Mác đi vào cõi vĩnh hằng với người vợ yêu quý, khi đang ngồi trên bàn làm việc.
Những đóng góp vĩ đại cho phong trào cách mạng thế giới
Chủ nghĩa Mác là hệ thống các quan điểm và học thuyết của C.Mác. Ông đã kế thừa biện chứng và phát triển hoàn chỉnh ba trào lưu tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XIX, thuộc ba nước tiến tiến nhất trên thế giới: triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Có thể khẳng định rằng, C.Mác đã để lại cho nhân loại một di sản lý luận đồ sộ và sâu sắc, trong đó cống hiến nổi bật nhất phải kể đến ba phát kiến vĩ đại sau đây:
Thứ nhất, C.Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, vạch ra quy luật phát triển của xã hội loài người
Vận dụng triết học duy vật biện chứng vào việc xem xét xã hội, C.Mác đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật lịch sử, xây dựng quan niệm duy vật về lịch sử qua các thời kì lịch sử. Lịch sử loài người trước hết là lịch sử phát triển sản xuất, lịch sử những phương thức sản xuất kế tiếp nhau, cũng tức là lịch sử của những người sản xuất của cải vật chất, lịch sử của quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng nhân dân là động lực phát triển của lịch sử, là đội quân chủ lực của các cuộc cách mạng xã hội thay thế hình thái kinh tế - xã hội cũ, lỗi thời bằng hình thái kinh tế - xã hội mới, tiến bộ hơn. Đảng Cộng sản, chính đảng của giai cấp công nhân, có lý luận tiền phong soi đường, là lực lượng lãnh đạo quần chúng nhân dân làm cách mạng để phá bỏ chế độ áp bức, bóc lột cũ, xây dựng chế độ mới, chế độ cộng sản chủ nghĩa. Lênin đã khẳng định: “Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Các Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”[1].
Thứ hai, C.Mác đã phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư - tìm ra quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa của xã hội tư bản
Bằng cách vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử vào việc nghiên cứu nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, học thuyết kinh tế của Mác vạch ra những quy luật kinh tế của xã hội tư bản chủ nghĩa, vạch ra quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của nó.
Phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư là phát kiến thứ hai của C.Mác. Theo Mác, giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ở sản phẩm so với khoản tiền phải chi phí để tạo ra sản phẩm ấy… Phần giá trị dôi ra ấy là sức lao động của công nhân bị chủ tư bản bóc lột. Từ đó, C.Mác chỉ ra bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột sức lao động của giai cấp công nhân để làm giàu. Mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản. Ông đã mang tới một luồng ánh sáng mới, khai sáng được những thắc mắc của các nhà khoa học, các nhà phê bình xã hội chủ nghĩa. Đây là quy luật tiền đề quan trọng để xây dựng một xã hội công bằng tốt đẹp, không có sự bóc lột.
Đánh giá về phát kiến vĩ đại trên của C.Mác, Lênin từng khẳng định: “Học thuyết giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Karl Marx”[2]. Ông đã hoàn thiện học thuyết giá trị lao động và đem lại cho các phạm trù tiền tệ, giá cả, lợi nhuận, lợi tức, địa tô,... một sắc thái mới, chẳng những trong xã hội tư bản, mà trong bất cứ một xã hội nào có sản xuất và trao đổi hàng hoá. Mặc dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản với những hình thức biểu hiện mới, song nhiều luận điểm cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư của Mác vẫn còn giá trị bền vững giúp chúng ta thấu hiểu bản chất không thay đổi của chủ nghĩa tư bản. Do đó, giai cấp vô sản nhất thiết phải đấu tranh chống giai cấp tư sản và nhất định giai cấp vô sản sẽ chiến thắng, chủ nghĩa xã hội nhất định sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản.
Thứ ba, C.Mác đã xây dựng học thuyết về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Đây là học thuyết mà C.Mác đã cùng với Ph.Ăngghen xây dựng - lý luận Chủ nghĩa xã hội khoa học. Đó là sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, biến các lý thuyết cách mạng, khoa học thành hành động cách mạng; là những phát kiến khoa học có tác động đến sự phát triển của lịch sử xã hội loài người như: sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản, chiến lược và sách lược cách mạng, cách mạng xã hội chủ nghĩa và chuyên chính vô sản, đường lối và biện pháp xây dựng chế độ cộng sản chủ nghĩa đã được C.Mác kiến giải một cách sâu sắc cùng với những dự báo khoa học về xã hội tương lai. Cũng nhờ có thế giới quan khoa học, chủ nghĩa Mác đã tìm ra quy luật phát triển của xã hội và lực lượng xã hội có thể làm cách mạng xóa bỏ chế độ tư bản và sáng tạo xã hội mới, đó là giai cấp vô sản. C.Mác và Ăngghen chỉ ra cho giai cấp vô sản trước hết phải tự mình vùng lên đánh đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Và trong cuộc đấu tranh đó, giai cấp vô sản phải đoàn kết chung quanh mình tất cả những người lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản phải đi tới lập nên nhà nước chuyên chính vô sản, giai cấp vô sản dùng nó làm công cụ để xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. C.Mác và Ăngghen đã chứng minh tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản và nêu ra những đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa cộng sản.
Với ba phát kiến vĩ đại đó, C.Mác đã xây dựng thành công hệ thống lý luận thống nhất, hoàn chỉnh mang tên ông - chủ nghĩa Mác, gồm ba bộ phận cấu thành là Triết học Mác-xít, Kinh tế chính trị Mác-xít và Chủ nghĩa xã hội khoa học gắn kết chặt chẽ với nhau. Đó là vũ khí lý luận và tư tưởng sắc bén mà giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới đã tìm thấy ở học thuyết của Mác và vận dụng trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp tư sản, hướng tới một tương lai tươi sáng. Như vậy, ba phát kiến vĩ đại cũng là ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - ánh sáng cách mạng soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, chấm dứt thời kì mò mẫm tìm đường giải phóng cho mình. Lênin đã từng ca ngợi: “Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là học thuyết hoàn bị và chặt chẽ, nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản”[3]. Chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng con đường cách mạng Việt Nam
Học thuyết của Các Mác - Ph.Ăng ghen đã được V.I Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển thành chủ nghĩa đế quốc. Từ đó, chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác - Lênin. Thế kỷ XIX và thế kỷ XX, nhân loại đã chứng kiến sự thành công của Chủ nghĩa Mác - Lênin trên toàn thế giới, khi Liên bang Xô Viết và hệ thống các nước XHCN ra đời và phát triển mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới. Sau những biến cố và thăng trầm của lịch sử, hiện nay các nước Việt Nam, Trung Quốc, Lào, Cu Ba, Triều Tiên và nhiều khu vực trên thế giới đã và đang vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn đất nước mình để thực hiện lý tưởng cao đẹp xây dựng CNXH. Còn trong các nước tư bản, các đảng cộng sản đã và đang hoạt động đấu tranh không ngừng nghỉ cho quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhờ vận dụng sáng tạo và linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn Việt Nam, mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lãnh đạo nhân dân giành được những thắng lợi to lớn mang tầm vóc thời đại: Lật đổ ách thống trị của chế độ phong kiến, thực dân, đế quốc; thống nhất đất nước, tiến lên xây dựng CNXH; tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, hòa nhập ngày càng sâu rộng và vững chắc vào cộng đồng thế giới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”[4]. Qua 38 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Đúc kết những bài học kinh nghiệm, nguyên nhân của những thắng lợi cách mạng, trong các văn kiện quan trọng Đảng ta đều nhấn mạnh vị trí, vai trò không thể thay thế của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
[1] V.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2005, t.23, tr.53
[2] V.Lênin: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.2005, t.23, tr.55.
[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1980, t.23, tr.50.
[4] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, H.2021, t.1, tr.109.
Tác giả: Diepkinh
Ý kiến bạn đọc
Những tin cũ hơn