Vạch trần, phản bác luận điệu sai trái, thù địch xuyên tạc rằng do ĐCS Việt Nam là một đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền, nên ở VN không hề có dân chủ thực sự

Thứ năm - 31/08/2023 00:31
Những luận điệu thù địch xuyên tạc về dân chủ là nhằm công kích, phá hoại và phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, mà thực chất là phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, trước Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV _Ảnh: TTXVN
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp xúc cử tri các quận Ba Đình, Đống Đa, Hai Bà Trưng, trước Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá XV _Ảnh: TTXVN

Đây là ý đồ rất thâm độc, cần được nhận diện rõ và tuyên truyền sâu rộng để mỗi cán bộ, đảng viên cùng toàn thể nhân dân hiểu và tham gia đấu tranh, phản bác, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay đã chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ và trong công cuộc xây dựng đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Ở Việt Nam, “Đảng ta” đã trở thành cụm từ thân thuộc, trân trọng không chỉ đối với hơn 5 triệu đảng viên, mà còn đối với mọi người dân Việt Nam. Chính vì thế, trong quá trình thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách hạ thấp uy tín hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những luận điệu thâm độc chúng thường xuyên sử dụng là: “Cần loại bỏ sự toàn trị của Đảng, cần thực hiện chế độ đa đảng, đa nguyên”, “một đảng (Đảng Cộng sản Việt Nam) lãnh đạo là không hề có dân chủ”,... Về thực chất, với những luận điệu này, chúng mưu toan xóa bỏ Điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đi tới bác bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải nhận diện đúng và quyết liệt đấu tranh, phản bác những luận điệu sai trái, thù địch này.

Có phải cứ đa đảng là dân chủ và một đảng thì mất dân chủ?

Xem xét từ góc độ lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa đảng chính trị và dân chủ trong lịch sử, cũng như hiện nay cho thấy, không phải cứ đa đảng là dân chủ và một đảng là mất dân chủ. Dân chủ không đồng nghĩa với đa đảng và thực hiện đa đảng không đồng nghĩa với có dân chủ.

Chúng ta đều biết, dân chủ là phạm trù lịch sử, chế độ (nền) dân chủ chỉ xuất hiện khi có nhà nước và mỗi một nền dân chủ lại gắn với một kiểu nhà nước nhất định, được pháp luật quy định. Chế độ dân chủ còn tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn lịch sử tương ứng. Trên thế giới, các quốc gia không tương đồng về trình độ phát triển kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hóa..., do đó, không thể có một chế độ dân chủ giống nhau. Thậm chí, trong một quốc gia, ở mỗi giai đoạn lịch sử lại có trình độ dân chủ tương ứng. Sự khác biệt này được quy định không chỉ do thể chế chính trị (về số lượng đảng phái), mà còn do những điều kiện kinh tế, văn hóa, lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia. Bàn về điều này, C. Mác đã viết: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(1).

Trên thực tế, theo thống kê ở các quốc gia, số lượng đảng phái chính trị rất khác nhau; một số nước có rất nhiều đảng chính trị, như Anh có 97 đảng, Tây Ban Nha có 87 đảng, Pháp có 76 đảng,... Nhưng cũng có nhiều nước chỉ có một đảng chính trị, như Cu-ba, Lào, Ga-na, Việt Nam, Hai-i-ti, Môn-na-cô,...(2); tuy nhiên, số lượng các đảng chính trị không phản ánh mức độ dân chủ, tự do ở từng nước. Xin-ga-po có nhiều đảng, nhưng chỉ có Đảng Hành động Nhân dân (PAP) lãnh đạo cầm quyền. Ở Trung Quốc, ngoài Đảng Cộng sản Trung Quốc, còn có 8 đảng phái khác và các đảng phái này đều thừa nhận Đảng Cộng sản Trung Quốc là đảng duy nhất lãnh đạo đất nước.

Đặc biệt là trường hợp của Mỹ: có khoảng hơn 100 đảng, nhưng chỉ có hai đảng là Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ thay nhau cầm quyền. Thực chất, đây là hai đảng của giai cấp tư sản, có bản chất, lập trường giai cấp và hệ tư tưởng không khác nhau, ngoài một vài chính sách cụ thể. Trong khi tuyên truyền đa nguyên, đa đảng, nhưng ở Mỹ, Đảng Cộng sản Mỹ lại bị hạn chế hoạt động; thậm chí, có những giai đoạn còn bị chính quyền đặt ngoài vòng pháp luật. “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hòa hay Dân chủ, là hai nhưng thực chất lại chỉ là một đảng...”(3). Nghiên cứu về vấn đề đa đảng và dân chủ ở một số nước phát triển cho thấy, ngoài trường hợp ở các nước Bắc Âu và nước Đức có đặc trưng chính phủ cầm quyền do sự liên minh của các đảng phái (không có sự độc quyền của đảng tư sản), còn lại ở Nhật Bản và Pháp, cầm quyền là sự độc tôn của đảng tư sản, ở Mỹ chủ yếu và thuần túy là đảng tư sản. Hình thức giành quyền lực ở các nước này theo phương thức “chính trường chủ yếu là nghị trường”. Xét về hình thức thì có vẻ rất dân chủ, song về thực chất, chỉ có những đảng lớn mới thắng cử (đảng của giai cấp tư sản được sự hậu thuẫn của các tập đoàn tài phiệt giàu có), các cơ quan lập pháp, hành pháp đều thuộc các đảng tư sản. Do vậy, ở không ít các nước tư bản hiện nay (kể cả Mỹ), xét về thể chế chính trị và số lượng thì đều có mô hình đa đảng, song về quyền lực chính trị vẫn chỉ là nhất nguyên (đảng của giai cấp tư sản nắm quyền lực).

Thực tiễn cho thấy, dù nhiều quốc gia thực hiện đa đảng, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc quyền làm chủ của đa số nhân dân được bảo đảm. Những cuộc lật đổ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái chính trị ở một số nước trên thế giới hiện nay làm cho hàng chục triệu người thiệt mạng, hàng chục triệu người khác lâm vào cảnh nghèo đói. Thực chất của đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập chính là sự phân chia, tranh giành quyền lực giữa các lực lượng chính trị trong xã hội, là một hình thức của cuộc đấu tranh giai cấp, đấu tranh giữa các phe nhóm trong cùng giai cấp để giành và giữ chính quyền, kiểm soát xã hội. Với lý do đó, đa nguyên, đa đảng không bao giờ tiến tới một nền dân chủ đích thực; và hệ quả xã hội điển hình nhất của nó là việc chiếm hữu và hưởng thụ tài nguyên xã hội theo tỷ lệ bất công “99% và 1%”, mà phong trào chiếm lấy phố Wall ở Mỹ những năm trước đây đã phơi bày.

Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã viết: “Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất”(4). Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”(5).

Cơ chế thực thi quyền lực nhà nước ở nhiều quốc gia tư bản phát triển hiện nay cho thấy, tổng thống hay thủ tướng có quyền phủ quyết các dự luật của quốc hội hoặc thậm chí tuyên bố giải tán quốc hội. Vậy “quyền lực thuộc về nhân dân” thể hiện ở đâu? Ngay cả đối với việc thực hiện phổ thông đầu phiếu - một trong những biểu hiện cao nhất của dân chủ, các nước tư bản cũng phải rất khó khăn trong việc xác lập tư cách cử tri, nhất là đối với phụ nữ. “Ở Anh - năm 1928; Pháp - năm 1944; Italia - năm 1945; Tây Ban Nha - năm 1970; Thụy Sĩ - năm 1971, và ở Mỹ thì phải đợi đến năm 1920, người phụ nữ ở các nước này mới có quyền đi bầu cử”(6).

Ở một góc độ khác, theo luận điệu của một số kẻ cơ hội chính trị, thù địch thì “cứ đa đảng mới có dân chủ”?! Vậy dân chủ ở Ác-mê-ni-a (có khoảng 40 đảng) liệu có cao hơn dân chủ ở Hà Lan (25 đảng) hay Na Uy (23 đảng)? Hoặc “cứ một đảng là mất dân chủ”?! Vậy ở Ma-lai-xi-a, Xin-ga-po - những nước có một đảng duy nhất cầm quyền (cho đến cuối những năm 80 của thế kỷ XX) - lại là những nước mất dân chủ ư?! Hiện nay, trên thế giới có khoảng 30 nước theo chế độ một đảng, trong đó những nước như Việt Nam, Lào, Triều Tiên, Cu-ba là theo chế độ một đảng và do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Như vậy, chế độ một đảng không phải là đặc điểm duy nhất có ở các nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, đồng thời không phải các nước theo chế độ một đảng là không có dân chủ.

Những phân tích lý luận và tổng kết thực tiễn ở trên cho chúng ta khẳng định: Luận điệu “một đảng thì mất dân chủ, cản trở sự phát triển, còn đa đảng đồng nghĩa với dân chủ, phát triển” là hoàn toàn sai trái và không dựa trên cơ sở khoa học. Đa đảng không phải là yếu tố bảo đảm dân chủ đích thực, bởi bản chất của dân chủ là “quyền lực thuộc về nhân dân”. Dân chủ được bảo đảm bởi nhiều yếu tố, trong đó có định hướng chính trị của lực lượng cầm quyền, cơ chế quản lý xã hội, trình độ phát triển kinh tế, dân trí, thực hiện quyền làm chủ thực sự của nhân dân. Vì vậy, bất cứ một quốc gia nào, dù đa đảng hay một đảng, mà đảng cầm quyền và nhà nước quan tâm đến việc bảo đảm quyền lực thực tế của nhân dân, nhân dân là chủ thể thực sự của quyền lực, thể hiện qua cương lĩnh, mục tiêu, chương trình hành động, thông qua hệ thống hiến pháp và pháp luật, thì quốc gia đó có dân chủ.

Dân chủ và thực hành dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam

Thứ nhất, ở Việt Nam từ năm 1989 đến nay không thực hiện chế độ đa đảng, nhưng điều này không đồng nghĩa với mất dân chủ, mà đó là xuất phát từ yêu cầu khách quan, vì sự phát triển của nền dân chủ, sự ổn định và phát triển của đất nước và hạnh phúc của nhân dân, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử và thể hiện ý nguyện của nhân dân Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (ngày 3-2-1930), vừa tuân theo quy luật chung, vừa tuân theo quy luật lịch sử đặc thù của Việt Nam, đã giải quyết triệt để cuộc khủng hoảng về đường lối giải phóng dân tộc vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, mở ra một thời đại mới trong lịch sử xây dựng, phát triển đất nước. Thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á; thắng lợi vang dội của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân, đế quốc, giải phóng và thống nhất đất nước, nhất là những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước,... đều thuộc về nhân dân, dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội kể từ khi ra đời đến nay, chính là do sự lựa chọn của lịch sử, của nhân dân Việt Nam, phù hợp với xu thế khách quan và thực tiễn xây dựng, phát triển đất nước.

 

Từ sau năm 1945, trong Nhà nước của chúng ta, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có một số đảng phái khác cùng tồn tại. Ngay trong Quốc hội khóa I, năm 1946, đã có mặt của Việt Nam Quốc dân đảng và Việt Nam Cách mạng đồng minh hội. Thời kỳ sau đó là sự có mặt của Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam. Trong bối cảnh đa đảng như thế, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn là sự lựa chọn duy nhất của nhân dân Việt Nam. Điều này cho thấy, Đảng Cộng sản Việt Nam chưa bao giờ và cũng sẽ không bao giờ tự cho mình quyền lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nếu như không được sự tin tưởng, lựa chọn của nhân dân. Đảng ta không có lợi ích tự thân. Hơn 93 năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tồn tại và phát triển vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân, mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc. Hơn nữa, lợi ích của giai cấp công nhân cũng là lợi ích của toàn thể nhân dân lao động.

Như vậy, ở Việt Nam, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa có căn cứ lý luận, vừa có căn cứ thực tiễn. Đồng thời, thực tế đã chứng minh, Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ khả năng lãnh đạo để đưa cơ đồ, tiềm lực và uy tín của đất nước lên tầm cao mới.

Thứ hai, khi tiến hành xem xét, đánh giá mức độ dân chủ ở nước ta hiện nay cao hay thấp, thì không thể chỉ dựa vào vấn đề một đảng hay nhiều đảng, mà còn phải thấy rõ được điểm xuất phát, ra đời, phát triển của chế độ dân chủ. Từ một quốc gia phong kiến, thuộc địa với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu, cơ cấu xã hội chủ yếu là nông dân, trình độ dân trí hạn chế, tàn dư phong kiến, thực dân nặng nề, lại phải trải qua mấy chục năm chiến tranh đấu tranh giành chính quyền, xây dựng đất nước, cho nên cơ sở xã hội đó không có nhiều thuận lợi cho nền dân chủ phát triển nhanh, thậm chí còn gặp phải rất nhiều rào cản từ điều kiện kinh tế, dân trí, văn hóa, pháp luật,...

Có thể nói, xét về hoàn cảnh ra đời, phát triển và thời gian xây dựng nền dân chủ, thì cho đến nay, những thành tựu đạt được về dân chủ ở nước ta là không thể phủ nhận. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nghiệp cách mạng ở nước ta đã đem lại những quyền cơ bản nhất cho quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân dân lao động. Dân tộc được độc lập, có quyền tự quyết trong việc lựa chọn con đường phát triển, có quyền bình đẳng với các dân tộc - quốc gia khác trên trường quốc tế. Theo Điều 23, Hiến pháp (năm 2013), công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định. “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”(7). Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng hoàn thiện. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, hợp tác, cạnh tranh lành mạnh. Nền văn hóa phát triển thống nhất trong sự đa dạng các sắc màu văn hóa dân tộc, dựa trên các giá trị tiến bộ và nhân văn. Giáo dục, y tế, khoa học và công nghệ được chú trọng phát triển, nhằm mục tiêu vì sự tiến bộ xã hội và phát triển toàn diện con người. Có 54 dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, đều “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển”. Các tôn giáo, tín ngưỡng được bình đẳng và tự do hoạt động trong khuôn khổ pháp luật. Mỗi người dân Việt Nam đều có quyền tự do làm giàu chính đáng theo pháp luật, phát huy dân chủ, gắn liền với giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội... Hiện nay, người dân đang thực hiện quyền dân chủ trực tiếp bằng việc tự mình lựa chọn người đại diện của mình thông qua các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp. Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, do đó, mọi người dân đều có thể trực tiếp hay gián tiếp (thông qua người đại diện của mình) đề đạt nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan nhà nước. Các “kênh” bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và hoạt động có hiệu quả. Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” trở thành quy chế, thiết chế dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội, trong các hoạt động của xã hội; là phương châm hành động của mọi người dân trong xây dựng hệ thống chính trị; là yêu cầu ứng xử của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong tiếp xúc, quan hệ với nhân dân và luôn chăm lo đến quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.

Cùng với thành tựu về dân chủ, qua hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên hầu hết lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức độ khá cao (tăng 7%/năm), đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược có bước chuyển biến tích cực, đạt một số kết quả đáng khích lệ; thu nhập bình quân đầu người đạt 3.512 USD, tăng 17 lần so với trước đổi mới. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện về thể chế theo hướng đầy đủ, hiện đại và hội nhập. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng hiện đại được xây dựng, đưa vào sử dụng. Các lĩnh vực văn hóa - xã hội tiếp tục được phát triển. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trên cơ sở đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo, được coi là một trong ba khâu đột phá. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh (trung bình 1,5%/năm theo chuẩn nghèo thế giới), được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. An sinh xã hội, phúc lợi xã hội từng bước được nâng cao; Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức 0,704%, xếp thứ 116/189 quốc gia (năm 2019), thuộc nhóm các nước có mức phát triển trung bình cao của thế giới. Tài nguyên, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được chú trọng, quản lý; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường.

Quán triệt nội dung Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, bộ máy nhà nước từng bước được tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn.  Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh được coi là nhiệm vụ then chốt, được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, đem lại hiệu quả rõ rệt; bảo đảm vững chắc quốc phòng - an ninh; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đạt được nhiều kết quả đáng ghi nhận, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, làm cho vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao. Đến nay, Việt Nam đã xác lập quan hệ ngoại giao với 189 quốc gia, là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 33 nước đối tác quan trọng; giữ vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2021 - 2022 và là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc năm 2022,...

Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(8); thực tế cách mạng Việt Nam đã khẳng định: “... sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(9), “Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ; phát triển nhanh và bền vững đất nước”(10).

Chúng ta có quyền tự hào rằng, hơn 93 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ðảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta, dân tộc ta không chỉ đã hồi sinh, mà còn không ngừng phát triển. Từ một nước thuộc địa, phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, không có tên trên bản đồ thế giới, lại bị thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, đất nước ta đã vươn lên tiến cùng thời đại, làm rạng danh dân tộc Việt Nam. Với những thành tựu to lớn đã đạt được, cùng sự tin yêu của nhân dân, nhất là với phẩm chất, năng lực, đạo đức và uy tín của Đảng, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng, với sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn, Ðảng Cộng sản Việt Nam hiện nay và trong tương lai vẫn sẽ là sự lựa chọn duy nhất, nhận được sự ủy thác, niềm tin và tín nhiệm cao nhất của nhân dân và dân tộc. Đây vừa là niềm tự hào, vừa là trọng trách lớn lao của Đảng trước đất nước, trước nhân dân và dân tộc. Đó là điều quan trọng mà không một đảng chính trị nào khác có được. Những bằng chứng đanh thép trên đây đã đập tan tất cả luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, những kẻ cơ hội chính trị luôn rêu rao về cái gọi là “chế độ một đảng là mất dân chủ”, “một đảng mới dẫn đất nước tới nghèo đói”,...

Thứ ba, nguy cơ một đảng dễ dẫn đến độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ là điều có thể và dễ xảy ra. Cần phải thừa nhận điều này để chủ động trong phòng, tránh.

Nhận thức được điều này, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đặc biệt quan tâm và luôn chú trọng đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đại hội XIII của Đảng coi tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh là một trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ 2021 - 2026. Trong đó, Đại hội nhấn mạnh, Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân phải phát huy vai trò chủ thể, nhằm huy động mọi nguồn lực đẩy nhanh sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Thông qua Nhà nước, Đảng lãnh đạo toàn xã hội, đất nước phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội. Vừa là người đại diện quyền làm chủ của nhân dân, vừa là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước phải thực hiện tốt vai trò thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng thành chính sách, pháp luật, tổ chức quản lý, điều hành xã hội để hiện thực hóa đường lối chính trị của Đảng, hành động vì quyền lợi của nhân dân, “điều gì có lợi cho dân phải cố gắng làm, điều gì có hại cho dân phải hết sức tránh, chăm lo phát triển, bồi dưỡng và tiết kiệm sức dân” như lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do vậy, “mọi đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(11). Là người chủ xã hội, cho nên nhân dân không chỉ có quyền, mà còn có trách nhiệm tham gia hoạch định, thi hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Chi bộ thôn Quang Minh, xã Minh Quang, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc họp bàn dân chủ về nâng cao chất lượng phát triển đảng viên vùng dân tộc thiểu số_Ảnh: xaydungdang.org.vn

Như vậy, trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích, là một trong những mối quan hệ lớn, cần được tăng cường nắm vững và giải quyết, nhằm hiện thực hóa mục tiêu: “Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích”(12).

Để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội, Đảng ta chỉ rõ, phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, vừa là thành viên, vừa là người lãnh đạo hệ thống chính trị thực hành dân chủ trong xã hội. Vì vậy, vai trò “hạt nhân” của Đảng được thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội. Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng sẽ tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên vận dụng, thực hành ở từng cơ quan, đơn vị, tổ chức, là tấm gương cho việc thực hiện và phát huy dân chủ trong xã hội; góp phần khắc phục bệnh độc đoán, chuyên quyền, tự do vô kỷ luật..., đang làm suy thoái một bộ phận cán bộ, đảng viên, ảnh hưởng không tốt đến uy tín của Đảng. Điều này đòi hỏi Đảng thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ “then chốt” là xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và cán bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ; kiên quyết và nâng cao hiệu quả đấu tranh khắc phục tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, lãng phí; kiên quyết bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phòng, chống các luận điệu sai trái, thù địch...

Làm được điều đó, chúng ta sẽ củng cố và giữ vững bản chất tốt đẹp, tính ưu việt của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện nhất nguyên; phát huy cao nhất quyền lực chính trị, xã hội của quần chúng nhân dân trong đời sống hiện thực./.

-------------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, 1995, t. 19, tr. 36
(2) Xem: Vũ Minh Giang: “Đảng phái chính trị ở các nước tư bản và khuynh hướng dân chủ xã hội”, trong cuốn sách: Những vấn đề lý luận và thực tiễn mới đặt ra trong tình hình hiện nay, Hội đồng Lý luận Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 386 - 387
(3) Xem: Đinh Công Tuấn: “Thành công từ một chuyến khảo sát tìm hiểu văn hóa Âu - Mỹ tại Hoa Kỳ”, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 7 (106), Hà Nội, 2009, tr. 89
(4), (5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 20 - 21, 21
(6) Nhị Lê: “Luận bàn về vấn đề “dân chủ và đa đảng”, “một đảng lãnh đạo và vấn đề dân chủ””, in trong cuốn sách: Luận cứ phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, Hội đồng Lý luận Trung ương, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 269
(7) Xem: Khoản 1, Điều 28, Hiến pháp (năm 2013),  Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2014, tr. 19
(8), (9), (10) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 25, 104, 104
(11), (12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 28

Theo TCCS

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây