Chương trình hành động này còn chỉ rõ: “Lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão”. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 27-3-1946, Người ký Sắc lệnh số 38/SL thiết lập Nha Thanh niên và Thể thao Trung ương, đồng thời Người viết bài: “Sức khỏe và thể dục”. Từ năm 1947-1967, Người có 25 bài và thư gửi ngành y tế và thương binh, xã hội, chỉ ra những quan điểm cơ bản về điều trị thương, bệnh binh, kết hợp quân dân y, kết hợp đông y và tây y và công tác khác của ngành y tế.
1- Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe và mối quan hệ giữa y lý, y thuật và y đạo trong tư tưởng của Người.
Người quan niệm sức khỏe là gồm có sự thoải mái cả về thể xác lẫn tâm hồn. Ðiều đáng chú ý, Người phát biểu quan niệm này từ năm 1946 và tới năm 1978, Tổ chức Y tế thế giới mới đưa ra định nghĩa về sức khỏe. Người định nghĩa: “Khí huyết lưu thông, tinh thần thoải mái, thế là sức khỏe”. Sinh ra tại một vùng “địa linh nhân kiệt” như Nghệ An, nơi cách không xa quê ngoại của Ðại danh y Hải Thượng Lãn Ông (Hương Sơn, Hà Tĩnh), lại lớn lên trong một gia đình nhà Nho có cha đã từng là thầy thuốc đông y làm nghề cắt thuốc trị bệnh cứu người, Chủ tịch Hồ Chí Minh am hiểu sâu sắc về y lý, y thuật và y đạo của Y học phương Ðông. Vì vậy, khi diễn giải về sức khỏe, Người dùng những khái niệm của y học phương Ðông. Theo Y học phương Ðông, huyết là cái xe vận chuyển khí, khí động thì sinh ra tinh, tinh động thì sinh ra thần. Nếu khí không động thì tinh thần tan rã, và như vậy là sinh ra bệnh tật, ốm đau, chết chóc.
Như vậy, chúng ta hiểu định nghĩa về sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh dựa trên y lý của Y học phương Ðông. Ngày nay Y học hiện đại cũng định nghĩa: “Sức khỏe là một tình trạng thoải mái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không phải chỉ là một tình trạng không có bệnh tật hay tàn tật”. Khởi đầu là sự tiếp thu y lý của Y học phương Ðông, nhưng khi đã tiếp cận với lý luận của triết học Mác về con người, con người vừa là thực thể tự nhiên vừa là thực thể xã hội, thì trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mặt thể chất và mặt tinh thần lại càng được hòa quyện với nhau trong khái niệm sức khỏe và công tác chăm sóc sức khỏe. Một điều quan trọng khi phân tích và học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về sức khỏe và công tác chăm sóc sức khỏe mà chúng ta cần lĩnh hội, đó là tính khoa học và tính thống nhất giữa y lý, y thuật và y đạo trong tư tưởng của Người. Chính dựa trên khái niệm đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta về y thuật và đặc biệt Người dạy nhiều về y đạo. Những lời dạy về y thuật và y đạo không phải là những ý ngẫu nhiên hoặc lặp lại một cách đơn thuần những ý hoặc lời của các bậc danh nhân hoặc danh y tiền bối. Chính sự hiểu đúng đắn về sức khỏe, hay nói cách khác, xuất phát từ cơ sở y lý đúng đắn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta những vấn đề y thuật và y đạo. Ðó là tính khoa học và tính thống nhất sâu sắc trong tư tưởng của Người về sức khỏe. Cũng chính từ cơ sở nhận thức đúng đắn về sức khỏe mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh đến y đạo, tức tính cao cả của nghề thầy thuốc và trọng trách của người thầy thuốc.
2- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trên cơ sở hiểu một cách đúng đắn về sức khỏe, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe trong kháng chiến và kiến quốc: Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe”. “Dân cường thì quốc thịnh”. “Sức khỏe của cán bộ và nhân dân được bảo đảm thì tinh thần càng hăng hái. Tinh thần và sức khỏe đầy đủ thì kháng chiến càng nhiều thắng lợi, kiến quốc càng mau thành công”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, con người là vị trí trung tâm của mọi hoạt động và quyền được sống là quyền cao nhất của con người. Khi được sống thì sức khỏe là yếu tố quan trọng nhất, nếu không có sức khỏe thì chẳng làm được gì. Chính vì vậy mà Người dạy chúng ta: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công”. Ðó chính là tư tưởng nhân văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò của sức khỏe và vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Có một điều mà chúng ta cần nhận thức sâu sắc, đó là ngay khi cách mạng còn nhiều khó khăn, gian khổ, đời sống của nhân dân còn gian nan, nhưng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất coi trọng vị trí của công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Người cho rằng: “Sạch sẽ thì ít ốm đau. Sức khỏe thì làm được việc, làm được việc thì có ăn”. Như vậy, không phải chỉ khi nào “có ăn” mới lo giữ sức khỏe. Người còn dạy: “Mình dù nghèo, ai cấm mình ăn ở sạch sẽ”. Ngày nay, khi liên hệ với nhận thức của một số cán bộ lãnh đạo các cấp, đặc biệt ở địa phương, chúng ta có thể thấy tình trạng coi nhẹ công tác chăm sóc sức khỏe của nhân dân trong địa bàn mình quản lý. Họ thường viện lý cần phải phát triển kinh tế trước, lo cái ăn trước và chăm lo văn hóa xã hội sau. Ðành rằng kinh tế có phát triển thì mới có tiền để mua trang thiết bị dùng để nâng cao chất lượng phòng bệnh và chữa bệnh. Nhưng không vì thế mà lãng quên hoặc coi nhẹ mọi hoạt động của công việc chăm sóc sức khỏe ngay khi bắt đầu xây dựng kinh tế. Hơn thế, câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn cho thấy: Chăm sóc sức khỏe cũng góp phần tạo ra của cải xã hội chứ không phải là một công việc chỉ tiêu tốn của cải xã hội.
3- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong vấn đề chăm sóc sức khỏe.
Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì sức khỏe của cá nhân và sức khỏe của cộng đồng có quan hệ mật thiết với nhau. Mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng là một nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về chăm sóc sức khỏe. Cơ sở sâu xa của tư tưởng này của Người cũng lại chính là sự tiếp cận của Người với tư tưởng triết học của Mác về con người. Con người có nhu cầu chăm sóc sức khỏe và biết cân bằng mối quan hệ cung cầu trong lĩnh vực này. Câu nói của Người: “Mỗi một người dân yếu ớt, tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khỏe tức là cả nước mạnh khỏe” đã thể hiện rất rõ mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức khỏe không chỉ là tài sản cá nhân mà còn là tài sản chung; tạo nguồn sức khỏe không chỉ là trách nhiệm cá nhân mà còn là trách nhiệm của cộng đồng. Bằng cách gắn nhiệm vụ tự chăm sóc sức khỏe với khái niệm yêu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe. Theo Người, tự chăm sóc sức khỏe không chỉ vì mục đích cá nhân mà còn có mục đích vì đất nước. Cũng bằng cách đặt vấn đề như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cụ thể hóa khái niệm yêu nước: Yêu nước không phải là một khái niệm chung chung, mà nó được thể hiện bằng các hành động cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Cách đặt vấn đề của Chủ tịch Hồ Chí Minh như một lời hiệu triệu đi vào lòng người, làm cho toàn dân nô nức thực hiện. Ngày nay, chúng ta không chỉ học tập tư tưởng Hồ Chí Minh mà còn phải học tập cả phương pháp Hồ Chí Minh. Ngoài việc tự chăm sóc sức khỏe, mỗi cá nhân có nghĩa vụ tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe. Người dạy: “Sạch sẽ tức là một phần đời sống mới. Sạch sẽ thì ít đau ốm, sức khỏe thì làm được việc, làm được việc thì có ăn. Xem đó thì biết rằng ai cũng nên làm đời sống mới”.
Ngoài vai trò cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh đến vai trò của cộng đồng. Người hết sức coi trọng việc phát động phong trào quần chúng thi đua trong chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Những ngày đầu sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Người gọi đó là phong trào xây dựng “Ðời sống mới”. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phong trào này phải đến với mỗi người và mỗi người phải tham gia. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về sức khỏe, vị trí của công tác chăm sóc sức khỏe và mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân mãi mãi là cơ sở lý luận cho mọi hành động đúng đắn của chúng ta trong sự nghiệp bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong di sản văn hóa phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng, đạo đức luôn là chủ đề được đặc biệt quan tâm. Đối với người quân tử, người có đạo đức, nói theo cách của Mạnh Tử, “giàu sang không thể đăng được tâm mình, nghèo hèn không thể đổi được tiết mình, uy vũ không thể thỏa được chí mình”. Còn Thiền sư Nguyễn Y Sơn (ở thời vua Lý Anh Tông, sinh năm 1121, mất năm 1213) từng viết: “Câu danh, câu lợi, bèo ra bọt, Trồng phúc, trồng duyên, đức để đời...”.
Trong thời hiện đại ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh, đúng như lời nói đầu ghi trong bộ sách “Hồ Chí Minh tuyển tập” (do NXB Chính trị Quốc gia xuất bản lần thứ hai năm 2002) đã nhận định, “là một lãnh tụ rất quan tâm và bàn nhiều đến đạo đức, đạo đức cách mạng”. Với Bác Hồ, “đạo đức là cái gốc của người cách mạng”. Những suy ngẫm của Bác Hồ về đạo đức của người cách mạng, người cán bộ trong chế độ ta đã không những vừa kế thừa được truyền thống dân tộc, vừa phát huy những tinh hoa của cha ông để lại mà còn là bước phát triển rất phong phú và sâu sắc những tư tưởng của đạo đức học Mácxít.
Ngay trong tập sách Đường kách mệnh xuất bản lần đầu tiên năm 1927, ở những trang đầu tiên, tác giả Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra rất rõ ràng và mạch lạc những tiêu chí về tư cách một người cách mạng. Đó là:
“Tự mình phải:
Cần kiệm.
Hòa mà không tư.
Cả quyết sửa lỗi mình.
Cẩn thận mà không nhút nhát.
Hay hỏi.
Nhẫn nại (chịu khó).
Hay nghiên cứu, xem xét.
Vị công vong tư.
Không hiếu danh, không kiêu ngạo.
Nói thì phải làm.
Giữ chủ nghĩa cho vững.
Hy sinh.
Ít lòng ham muốn về vật chất.
Bí mật.
Đối người phải:
Với từng người thì khoan thứ.
Với đoàn thể thì nghiêm.
Có lòng bày vẽ cho người.
Trực mà không táo bạo.
Hay xem xét người.
Làm việc phải:
Xem xét hoàn cảnh kỹ càng.
Quyết đoán.
Dũng cảm.
Phục tùng đoàn thể”.
Còn trong Di chúc, viết năm 1969, Bác cũng không quên nhắc nhở: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Trong suốt cuộc đời hoạt động vì dân, vì nước sôi nổi và không mệt mỏi của mình, Bác Hồ đã luôn nhấn mạnh tới việc, chỉ dựa trên nền tảng đạo đức thực sự, những người cộng sản Việt Nam mới có thể có cơ hội giữ vững được vai trò là đội quân tiên phong của dân tộc, đưa đất nước ngày một phát triển, tiến tới mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài...”. (Sách Sửa đổi lối làm việc, viết xong tháng 10/1947). Bác nhìn nhận, khởi thủy của mọi thành bại trong sự nghiệp cách mạng chính là đạo đức.
Cũng trong sách Sửa đổi lối làm việc, Bác đã viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc gì?”. Chính vì thế nên “Đảng phải chọn lựa những người rất trung thành và rất hăng hái, đoàn kết họ thành nhóm trung kiên lãnh đạo. Đảng phải luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài. Đảng phải giữ nghiêm kỷ luật từ trên xuống dưới...”. Và mỗi đảng viên, để giữ vững đạo đức cách mạng, cần phải rèn giũa trong mình ít nhất là 5 đức tính tốt: Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Theo Bác, đạo đức cách mạng chính là 5 phẩm chất trên và “đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ đại, nó không phải vì danh vọng cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của loài người...”.
Các tiêu chí đạo đức cách mạng mà Bác Hồ nêu ra luôn lấy chữ Nhân nghĩa làm đầu: “Nhân là thật thà thương yêu, hết lòng giúp đỡ đồng chí đồng bào. Vì thế mà kiên quyết chống lại những người, những việc có hại đến Đảng, đến nhân dân. Vì thế mà sẵn lòng chịu cực khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu sang, không e cực khổ, không sợ oai quyền... Những người đã không ham, không e, không sợ gì thì việc gì là việc phải họ đều làm được”. Câu nói này của Bác có thể khiến chúng ta liên tưởng đến một câu nói xưa trong Diêm thiết luận của Trung Hoa: “Người quân tử, trọng được, khinh được, làm tội được, giết chết được, nhưng không thể bắt làm xằng được”. Người cán bộ cách mạng có đạo đức phải là người không bao giờ làm việc gì xằng bậy, có hại đến Đảng, đến nhân dân. Làm cách mạng, suy cho cùng, cũng là làm để dân yên. Ở đây ta cũng có thể liên tưởng tới câu văn thấm thía của Nguyễn Trãi trong Bình Ngô đại cáo: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”).
Năm 1948, khi viết bài đề cập tới 6 điều không nên làm và 6 điều nên làm dành cho cán bộ, đảng viên ta trong các lĩnh vực hoạt động, Bác đã mở đầu bằng câu: “Nước lấy dân làm gốc” và diễn giải chi tiết những việc không nên làm khiến mất lòng dân, thí dụ như “không nên làm điều gì có thể thiệt hại đến nương vườn, hoa mầu, hoặc làm bẩn, làm hư nhà cửa, đồ đạc của dân”, “không nên năn nỉ quá hoặc mượn cho bằng được những đồ vật người ta không muốn bán hoặc cho mượn”, “không bao giờ sai lời hứa”, “không xúc phạm tới tín ngưỡng”...
Thậm chí, Bác còn căn dặn: “Không nên đưa gà còn sống vào nhà đồng bào miền ngược”. Luôn luôn có tầm nhìn xa trông rộng, hướng tới đại cục, nhưng khi cần thiết, Bác Hồ cũng biết nói một cách rất tỉ mỉ tới những việc cứ tưởng như nhỏ nhưng lại có thể làm phương hại tới hình ảnh đạo đức của người cán bộ cách mạng.
Với Quân đội nhân dân Việt Nam, Bác luôn nhắc nhớ, cần phải “Trung với Đảng, Hiếu với dân, Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, Khó khăn nào cũng vượt qua, Kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Bác cũng căn dặn các vị tướng lĩnh quân đội phải giữ chữ Nhân, tức là phải “thương yêu cấp dưới, phải đồng cam cộng khổ với họ. Đối với địch hàng, ta phải khoan dung”.
Với lực lượng Công an nhân dân, 6 lời dạy của Bác là:
“Đối với tự mình, phải cần kiệm liêm chính.
Đối với đồng sự, phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ, phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép.
Đối với công việc, phải tận tụy.
Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”.
Với thanh niên, Bác căn dặn:
“Không có việc gì khó,
Chỉ sợ lòng không bền.
Đào núi và lấp biển,
Quyết chí ắt làm nên”.
Với thiếu nhi, Bác nêu ra 6 lời dạy, trong đó có những câu mà người viết bài này đã nhập tâm từ khi 6-7 tuổi tới bây giờ: “Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; Học tập tốt, Lao động tốt; Giữ gìn vệ sinh thật tốt; Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm...”. Vừa ngắn gọn, thiết thực và dễ nhớ!.
Để giữ vững đạo đức cách mạng, theo Bác Hồ, chúng ta luôn cần phải chống lại chủ nghĩa cá nhân. Ngay từ năm 1948, trên chiến khu Việt Bắc, Bác đã rung chuông báo động:
“Nhờ ngọn lửa kháng chiến hun đúc rèn luyện mà cán bộ quân sự, chính trị, hành chính, chuyên môn đều tiến bộ nhiều và nhanh. Song vẫn còn một vài người, một vài cơ quan hãy chưa tẩy hết cái bệnh chủ nghĩa cá nhân. Bệnh ấy tỏ rõ ra nơi:
Ngày thường thì kỷ luật kém.
Khi có vấn đề nghiêm trọng thì hoang mang.
Lúc tính toán công việc thì đặt lợi ích cá nhân mình, của nhóm mình lên trên lợi ích chung.
Bệnh ấy dễ đưa đến chỗ trái kỷ luật, lợi ích của dân tộc”.
Bác cũng đã sớm nhìn ra mối liên hệ giữa chủ nghĩa cá nhân với bệnh quan liêu:
“Do chủ nghĩa cá nhân mà sinh ra bệnh quan liêu. Kềnh càng. Kiêu ngạo. Chậm chạp. Làm cho qua chuyện. Ham chuộng hình thức...”.
Trước khi từ trần không lâu, trong một bài viết đề ngày 3/2/1969 với tiêu đề Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Bác Hồ lại nhắc nhở:
“Còn có một số ít cán bộ, đảng viên mà đạo đức, phẩm chất còn thấp kém.
Họ mang nặng chủ nghĩa cá nhân, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người”, mà chỉ muốn “mọi người vì mình”.
Do chủ nghĩa cá nhân mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh...”.
Để chống lại chủ nghĩa cá nhân, để giúp đỡ các đảng viên cán bộ giữ vững đạo đức cách mạng, theo Bác Hồ, không được một giây phút nào xao nhãng những việc quan trọng và thường xuyên như thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Đảng; hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên... Đồng thời, chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc; kỷ luật của Đảng phải nghiêm minh; công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ...
Những bài học của Bác Hồ về đạo đức cách mạng cho tới hôm nay vẫn còn nguyên ý nghĩa
Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo bước đột phá trong phát triển đất nước, những năm tới Đảng Cộng sản Việt Nam phải dành nhiều công sức tạo bước chuyển biến rõ rệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực.
Dĩ bất biến ứng vạn biến
Càng đi sâu nghiên cứu, suy ngẫm, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đối chiếu với sự vận động theo dòng chảy thời gian của đời sống, càng thấy tầm phủ sóng rộng lớn và độ mở khôn cùng tư tưởng của Người. Có thể tìm thấy trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh nhiều, rất nhiều vấn đề còn nóng hổi tính thời sự, đặc biệt là tư tưởng đại đoàn kết – sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong các bài viết, bài nói và cuộc đời hoạt động vô cùng phong phú, cao đẹp của Người. Đại đoàn kết, từ tư duy truyền thống đến Hồ Chí Minh đã trở thành một chiến lược cách mạng nhất quán, thành bí quyết thành công của cách mạng Việt Nam.
Trong cuộc đấu tranh trường kỳ giành và giữ độc lập, tự do, thống nhất đất nước, tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ tập hợp, phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành những thắng lợi vĩ đại. Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; thành công, thành công, đại thành công công là sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bài học lịch sử cơ bản, phản ánh quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam.
Sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, trung thành với tư tưởng cách mạng và khoa học của Người, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng củng cố, bồi đắp khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, giành những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới.
Ở thời điểm kết thúc thập niên thứ nhất, chuẩn bị bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, Việt Nam đứng trước những thời cơ, vận hội phát triển mới, đồng thời cũng phải đối mặt với những khó khăn, thách thức không nhỏ. Thành quả to lớn sau một phần tư thế kỷ tiến hành sự nghiệp đổi mới đã làm tăng thêm nhiều lần thế và lực của đất nước; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền được giữ vững; đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện; vị thế và uy tín quốc tế được nâng cao. Đó là nền tảng cơ bản, tạo đà cho bước phát triển bứt phá trong chặng đường sắp tới. Tuy nhiên, tiềm lực và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh của nền kinh tế đất nước trong cuộc ganh đua kinh tế gay gắt, quyết liệt toàn cầu; những hạn chế, yếu kém chậm được khắc phục trong quản lý, giải quyết những vấn đề văn hóa, xã hội, nhất là tình trạng phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội; cuộc đấu tranh cam go chống tham nhũng, tiêu cực nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; tính chất gay gắt của cuộc đấu tranh tư tưởng trước sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch và sự phức tạp trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền trước xu hướng gia tăng cuộc chạy đua tranh giành tài nguyên, năng lượng và các địa bàn chiến lược giữa các quốc gia… là những khó khăn, thách thức đang đặt ra, đòi hỏi phải được giải quyết.
Trong bối cảnh đó, kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh chính là phương sách tạo nên sức mạnh vô địch dựng nước và giữ nước; chính là lấy cái bất biến để ứng phó với cái vạn biến của thời cuộc.
Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì con người
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh trọn đời hy sinh phấn đấu vì mục đích cao cả: dân tộc độc lập – nhân dân tự do – con người hạnh phúc. Mọi suy nghĩ, tình cảm và hành động của Người đều hướng vào, đều xoay quanh mục tiêu duy nhất đó. Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trở thành ngọn cờ hiệu triệu, động viên sức mạnh vĩ đại của đông đảo lực lượng yêu nước, cách mạng chính là vì Người đã nhận thức đúng đắn sự thống nhất biện chứng và giải quyết hài hoà lợi ích dân tộc – lợi ích giai cấp – lợi ích con người phù hợp với yêu cầu và điều kiện của từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng.
Những năm tháng đất nước bị chủ nghĩa thực dân đô hộ, nhân dân sống trong lầm than nô lệ; độc lập, chủ quyền dân tộc bị chà đạp; Tổ quốc bị chia cắt, độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất là đòi hỏi khách quan của toàn dân tộc, là ý nguyện của mọi giai tầng xã hội, là khát vọng của mỗi người Việt Nam yêu nước. Lúc này, lợi ích dân tộc, giai cấp, con người thống nhất làm một – nước mất thì nhà tan; không giành được lợi quyền cho dân tộc thì lợi ích của giai cấp, của con người đến vạn năm cũng không đòi lại được. Trong hoàn cảnh đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu: Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết, dù phải đốt cháy cả dãy Trường sơn cũng phải giành cho được độc lập, nếu còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch chúng đi … Những lời kêu gọi tràn đầy tính tư tưởng và hành động của Người đã khơi dậy chủ nghĩa yêu nước và khí phách anh hùng của dân tộc, nhân dân, con người Việt Nam, tạo nên những kỳ tích trong Cách mạng Tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược.
Trong khi đề cao lợi ích dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến lợi ích con người. Trước khi giành được chính quyền, Người đặc biệt chú trọng lãnh đạo, chỉ đạo phong trào đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ: ruộng đất cho dân cày; tăng lương, giảm giờ làm cho thợ thuyền; quyền tự do cho công chức, viên chức, học sinh, sinh viên… Đất nước vừa được độc lập, trước sự đe dọa của thù trong, giặc ngoài, tình thế như ngàn cân treo sợi tóc, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa lãnh đạo Chính phủ lâm thời lo chống giặc ngoại xâm, vừa dồn sức chống giặc đói, giặc dốt. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Người chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, vừa đánh giặc vừa tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, đảm bảo đời sống cho nhân dân, bộ đội. Trong quá trình xây dựng chế độ xã hội mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên căn dặn các cấp ủy đảng, chính quyền từ Trung ương đến địa phương chăm lo cho con người, từ cái kim sợi chỉ, tương cà mắm muối, việc học hành, khám chữa bệnh, đến đảm bảo quyền tự do, bình đẳng và cơ hội phát triển, tiến bộ. Trước khi qua đời, trong Di chúc gửi lại cho toàn Đảng, toàn dân, Người căn dặn ”Đầu tiên là công việc đối với con người”, “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm nâng cao đời sống của nhân dân”. Có thể nói, như lời cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Tư tưởng Hồ Chí Minh luôn luôn xuất phát từ con người và cuối cùng trở về với con người với những khả năng thiên biến vạn hóa của nó”.
Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết; tất cả do con người, vì con người – đó chính là nền tảng trong Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh; là mẫu số chung để tăng cường sự thống nhất, đồng thuận và hóa giải những khác biệt, thậm chí mâu thuẫn về lợi ích theo phương châm cầu đồng tồn dị. Đây là bài học lớn đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Đảng Cộng sản Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo đất nước luôn nhất quán mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; trước mắt, đang động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phấn đấu đến năm 2020 đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu lý tưởng đó thật cao đẹp; mục tiêu phấn đấu trước mắt có ý nghĩa thật lớn lao, thiết thực. Cần tăng cường tuyên truyền, vận động để mục tiêu phấn đấu đó từ ý tưởng trong Cương lĩnh, trong Chiến lược của Đảng thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của đông đảo cán bộ, đảng viên, nhân dân, của mỗi người Việt Nam yêu nước, trở thành khát vọng, ý chí, quyết tâm chấn hưng đất nước, thành mẫu số chung quy tụ đại đoàn kết toàn dân tộc, biến nó thành sức mạnh hành động trong lao động, sáng tạo xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Trung thành với chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, những năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt vấn đề con người ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển, xem con người vừa là mục tiêu vừa là động lực, ”thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục… giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người”. Trên thực tế, cùng với những thành tựu to lớn của sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã thành công trong công cuộc xoá đói giảm nghèo, thực hiện thắng lợi những mục tiêu thiên niên kỷ. Điều kiện sống, lao động, học tập, chăm sóc sức khỏe của người Việt Nam không ngừng được cải thiện; quyền con người được tôn trọng, bảo đảm; ước mơ, hoài bão và tài năng sáng tạo của con người được khuyến khích, trân trọng. Tuy nhiên, do tiềm lực kinh tế còn hạn chế, do tác động của thiên tai cùng ảnh hưởng những biến động khó lường của kinh tế quốc tế trong bối cảnh hội nhập và do cả những yếu kém trong quản lý, giải quyết các vấn đề xã hội, đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào vùng sâu, vùng xa, những người làm công ăn lương, những gia đình chính sách, neo đơn, cô quả… còn khó khăn; khoảng cách giàu nghèo chậm được thu hẹp; tiến bộ và công bằng xã hội triển khai chưa đồng bộ; có nơi, có lúc quyền và lợi ích của con người còn bị xâm phạm. Bước vào thời kỳ phát triển mới, Đảng, Nhà nước cần đầu tư thích đáng các nguồn lực; hoàn thiện và thực hiện hiệu quả các cơ chế, chính sách đảm bảo phúc lợi và an sinh xã hội, nâng cao chất lượng sống và bồi đắp, phát huy tài năng lao động, sáng tạo vốn rất tiềm tàng của người Việt Nam, nhân lên sức mạnh kết đoàn và nguồn năng lượng nội sinh vô tận. Những năm tháng này, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chăm lo cho con người có ý nghĩa thời sự sâu sắc biết nhường nào: ”Vấn đề con người là hết sức quan trọng. Nhà máy cũng rất cần có thêm, có sớm, nhưng cần hơn là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả là do con người”.
Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân
Trong các di cảo của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi ngời sáng những dòng chữ viết về Nhân Dân:
”Nước lấy dân làm gốc”
”Gốc có vững cây mới bền,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”;
”Trong bầu trời không có gì quí hơn nhân dân.
Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”;
”Dễ trăm, lần không dân cũng chịu,
Khó vạn lần dân liệu cũng xong”.
Đại đoàn kết toàn dân tộc thực chất là đoàn kết toàn dân. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, phạm trù Nhân Dân mở rộng biên độ tới tất cả mọi người Việt Nam yêu nước, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, giàu nghèo, trong nước hay ở nước ngoài – ai tự nguyện nhận mình là con Lạc cháu Hồng thì người đó là một tế bào của Nhân Dân. Theo Người, Nhân Dân tuy là một phạm trù mở về biên độ, nhưng chặt chẽ về cơ cấu, tổ chức – Mặt trận dân tộc thống nhất và các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp là tổ chức tập hợp, vận động, hướng dẫn và đại diện cho quyền lợi của Nhân Dân, liên minh công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra mối quan hệ máu thịt giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước cách mạng với Nhân Dân. Một mặt, Nhân Dân chỉ có thể trở thành lực lượng tự giác và phát huy cao nhất tiềm năng, sức mạnh của mình một khi có Đảng Cộng sản, lãnh đạo; mặt khác, Đảng Cộng sản chỉ nắm được và giữ vững quyền lãnh đạo đất nước, xã hội khi nào Nhân Dân tin tưởng, đi theo và hết lòng ủng hộ. Vì vậy, Đảng Cộng sản phải hết lòng, hết sức phụng sự Nhân Dân; cán bộ, đảng viên phải là người lãnh đạo, đồng thời là người đầy tớ, người công bộc thật sự trung thành của Nhân Dân. Tất cả quyền lực và của cải là của Nhân Dân; Nhân Dân trao quyền cho Nhà nước điều hành, quản lý, và do vậy Nhà nước phải phấn đấu trở thành nhà nước thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; phải nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, mang lại những lợi ích thiết thực phục vụ nhân dân.
Trọng dân, gần dân, hiểu dân, yêu dân, học dân, có trách nhiệm với dân; nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin, mọi chủ trương, chính sách xuất phát từ dân và trở về với dân… chính là phương châm hành động và phong cách Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh tình nguyện làm một người lính vâng lệnh quốc dân đồng bào mà phấn đấu hy sinh, ”Hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân”. Nhân dân Việt Nam thành kính biết ơn, tuyệt đối tin theo và đoàn kết xung quanh Người chính là vì lòng yêu nước, thương dân bao la đó.
Mấy chục năm qua, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá, nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân Việt Nam hăng hái đấu tranh, tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ở thời điểm chuẩn bị bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI với mục tiêu phấn đấu có ý nghĩa lịch sử, trong bối cảnh thuận lợi và thách thức đan xen, các thế lực thù địch đang tìm mọi cách chống phá hòng phân hóa nội bộ nhân dân, kích động chia rẽ, đối lập Nhân Dân với Đảng, việc kế thừa, phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, chăm lo bồi dưỡng sức dân, phát huy dân chủ, quyền làm chủ và tiềm năng to lớn của Nhân Dân trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc có ý nghĩa sống còn. Vấn đề cấp bách phải làm ngay là tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một phận cán bộ, đảng viên; khắc phục những yếu kém, khuyết điểm trong quản lý kinh tế, xã hội; giải quyết có hiệu quả những vấn đề xã hội và dân sinh bức xúc; nâng cao dân trí, dân khí, dân sinh; kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh tâm lý – thông tin của các thế lực thù địch… nhằm củng cố niềm tin và bồi đắp quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhân Dân với Nhân Dân. Làm tốt những công việc này thì khó khăn, thử thách nào cũng có thể vượt qua; mục tiêu, nhiệm vụ nào Việt Nam cũng có thể thực hiện thắng lợi.
Quan san muôn dặm một nhà
Trong tư tưởng và hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn kết dân tộc luôn gắn liền với đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn hòa quyện và thống nhất với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hiếm có lãnh tụ quốc gia nào như Chủ tịch Hồ Chí Minh, một phần lớn cuộc đời tranh đấu của mình lại gắn bó mật thiết, ở tầng sâu và tầm cao, với thực tiễn phong trào cách mạng thế giới; nhận thức và giải quyết những vấn đề của đất nước, dân tộc mình từ tầm nhìn nhân loại và xu thế thời đại. Từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ, cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam muốn thắng lợi phải có một đảng chân chính lãnh đạo để trong thì tập hợp mọi lực lượng yêu nước, ngoài thì liên kết với giai cấp vô sản và các dân tộc bị áp bức, bóc lột nơi nơi. Khi đất nước đã giành được độc lập về chính trị, phải tiến hành sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất đất nước và xây dựng chế độ xã hội mới, với trách nhiệm là người đứng đầu Đảng và Nhà nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định: “Việt Nam chỉ muốn hoà bình và độc lập để cộng tác thân thiện với các dân tộc trên thế giới”; Việt Nam là một bộ phận trong đại gia đình châu Á, một bộ phận trong nền hòa bình chung toàn thế giới; “Thái độ nước Việt Nam đối với những nước châu Á là một thái độ anh em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”; “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”. Tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh có sức thu hút và lan tỏa sâu rộng bởi lẽ đó là tư tưởng vì hòa bình, công lý, vì tình hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc, là sự kết hợp hài hoà đoàn kết để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân loại tiến bộ với thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả theo tinh thần thuỷ chung, trong sáng. Người thường căn dặn: giúp bạn chính là giúp mình.
Là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời là chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, “góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội (…), những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc của dân tộc mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”. Những người yêu chuộng hoà bình, công lý và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới khâm phục, ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh vì Người là hiện thân cho tình anh em bốn biển và thông qua những hoạt động không mệt mỏi, những cống hiến xuất sắc của Người đối với cộng đồng quốc tế, nhân loại tiến bộ hiểu nhiều hơn, ủng hộ và hết lòng giúp đỡ sự nghiệp đấu tranh chính nghĩa của dân tộc Việt Nam anh hùng. Đáp lại tình cảm và sự giúp đỡ quốc tế quý báu đó, trước khi qua đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh có tâm nguyện thay mặt nhân dân Việt Nam đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong phe xã hội chủ nghĩa và các nước bầu bạn khắp năm châu đã tận tình ủng hộ và giúp đỡ cuộc chống Mỹ, cứu nước của Việt Nam.
Thế giới ngày nay đã có nhiều thay đổi. Nhân loại đang chứng kiến sự cùng tồn tại, hợp tác và đấu tranh giữa các quốc gia có chế độ chính trị, xã hội khác nhau. Toàn cầu hóa cùng sự phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và sự biến đổi khắc nghiệt của khí hậu và những hiểm hoạ chung đang và sẽ đặt trước nhân loại những vận hội và thách thức mới. Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là xu hướng lớn, chủ đạo; các quốc gia ngày càng xích lại gần nhau trong sự tùy thuộc về lợi ích và yêu cầu chung tay giải quyết những vấn đề toàn cầu. Tuy nhiên, sự phục hồi chủ nghĩa dân tộc cực đoan và sự gia tăng cuộc cạnh tranh ảnh hưởng, quyền lực, tài nguyên… vẫn là những nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến mâu thuẫn và xung đột khu vực và quốc tế không thể xem thường.
Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt Nam tiếp tục kế thừa, phát triển tư tưởng đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tê.ë Việt Nam đang và sẽ là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, vừa kiên quyết giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vừa làm tròn nghĩa vụ và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Một thế giới hòa bình, thịnh vượng, một cộng đồng quốc tế hữu nghị, hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần anh em, bè bạn – đó là mong muốn và phấn đấu suốt đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó cũng là ước nguyện của dân tộc Việt Nam, một dân tộc khao khát, yêu chuộng hòa bình, đạo lý nhân nghĩa thủy chung và cũng là một dân tộc sẵn sàng đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để bảo vệ hòa bình, độc lập, chủ quyền của Tổ quốc.
Giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình
Đảng Cộng sản Việt Nam là thành viên đặc biệt của Mặt trận dân tộc thống nhất, là hạt nhân đóng vai trò lãnh đạo, tổ chức, hướng dẫn hoạt động của Mặt trận. Sự đoàn kết, thống nhất của Đảng tác động rất lớn đến việc tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm sâu sắc đến công tác xây dựng Đảng, nói chung, đến việc củng cố, tăng cường sự đoàn kết, nhất trí của Đảng, nói riêng. Trong bản Di chúc lịch sử, với tư cách là người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết những suy nghĩ trăn trở cả một đời về Đảng, xem đó là công việc quan trọng trước hết để dặn lại những người đồng chí của mình. Người viết: ”Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”. Người dặn dò, trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phêâ bình; phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau; mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư, phải giữ gìn Đảng thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Hơn bốn mươi năm đã trôi qua, những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn vẹn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Tuyệt đại bộ phận những người cộng sản Việt Nam đã giữ đúng lời thề khi vĩnh biệt vị Lãnh tụ thiên tài và vô cùng kính yêu của mình: Hết lòng hết sức giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng, tăng cường sức chiến đấu của Đảng, làm hạt nhân cho khối đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng lợi. Tuy nhiên, trong tiến trình cách mạng và đổi mới, do tác động của những tàn dư tư tưởng phong kiến, thực dân chưa bị quét sạch, tâm lý tiểu nông, sản xuất nhỏ chưa được khắc phục; do tính chất lâu dài, gian khổ, phức tạp của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội; do sự kích thích, cám dỗ của mặt trái cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế chưa được phòng ngừa, ngăn chặn; do sự kích động chống phá tinh vi và hiểm độc của các thế lực thù địch chưa bị đánh bại và do cả những thiếu sót trong công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, một bộ phận cán bộ, đảng viên không chịu tu dưỡng, rèn luyện đã bị tha hóa, biến chất. Đã có biểu hiện dao động, hoài nghi đường lối, chủ trương của Đảng; đã xuất hiện tư tưởng công thần, địa vị, cục bộ, bè phái; đã có hiện tượng đam mê, tranh giành quyền lực, chạy chức, chạy quyền… Những tiêu cực đó đã ảnh hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, hạn chế sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế.
Để đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo bước đột phá trong phát triển đất nước, những năm tới Đảng Cộng sản Việt Nam phải dành nhiều công sức tạo bước chuyển biến rõ rệt về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực.
Đây là nhiệm vụ then chốt có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
87 năm trước, Nhà văn Xô viết Oxíp Manđenxtam đã viết trên báo Ogoniok về Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với một dự cảm tốt đẹp: ”Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa tương lai”. (17) Kỷ niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh bên thềm Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chính là dịp để những người cộng sản Việt Nam, một lần nữa, ôn lại những di sản tư tưởng vô giá của Người Thầy vĩ đại, để tin tưởng vững bước vào tương lai./.
Ở đây chúng tôi không bàn đến nội dung và phương pháp tiến hành cách mạng vô sản ở nước Việt Nam thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc, mà chỉ bàn đếnbản chất cách nạng và khoa học tạo gía trị bền vững trong lý luận Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc thuộc địa Việt Nam sau khi Người tiếp thu chủ nghĩa nhân văn mácxít và phương pháp làm việc biện chứng - bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Giá trị bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc thể hiện qua các luận điểm chủ yếu "giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản", "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta", thực hiện chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Với Mác và Ăngghen, trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã nêu rõ: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ”. Để nói rõ hơn, hai ông giải thích: “Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo”. Điều đó có nghĩa là, đối với những nước tư bản phát triển, giải phóng con người, giải phóng giai cấp phải diễn ra trước khi giải phóng các dân tộc bị áp bức, mà con người nói ở đây là giai cấp công nhân, giai cấp vô sản.
Rõ ràng đối với Mác, Ăngghen, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản chưa trở thành chủ nghĩa đế quốc, vấn đề giải phóng dân tộc chưa được quan tâm đúng mực. Chính vì vậy, Lênin mới nói: “Đối với Mác, thật không nghi ngờ gì cả là so với “vấn đề công nhân” thì vấn đề dân tộc chỉ có ý nghĩa thứ yếu mà thôi”. Đồng thời Lênin cũng nói: “Những lý luận của Mác thì xa, việc coi thường các phong trào dân tộc, như trời xa đất vậy”. Điều đó có nghĩa là Lênin không nghĩ rằng Mác coi thường vấn đề dân tộc, mà chỉ vì trong thời đại của Mác, vấn đề giải phóng dân tộc chưa đặt ra một cách gay gắt như sau này khi chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc.
Phải đến cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản mới chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, đẫn đến tình trạng xâm chiếm các thuộc địa. Trong bối cảnh đó, đương nhiên, Lênin không chỉ tiếp thu học thuyết Mác mà phải phát triển chủ nghĩa Mác, sáng lập ra Quốc tế III thay thế Quốc tế I và II, đồng thời nêu khâu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc thuộc địa, đoàn kết lại!” thay cho khẩu hiệu do Mác và Ăngghen nêu: “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Nhờ đó, Lênin đã thành công trong cách mạng Nga với việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa các dân tộc còn lạc hậu, chưa phát triển ở nước Nga Xô viết. Nhưng dù sao, Lênin cũng chỉ mới giải quyết được vấn đề dân tộc và thuộc địa trong phạm vi các dân tộc thuộc ảnh hưởng của nước Nga, nghĩa là chưa phải các dân tộc thuộc địa đang chịu sự áp bức, bóc lột tàn bạo của chủ nghĩa thực dân nhân danh nền văn minh phương Tây đi “khai hóa” các dân tộc mà họ xem là “dã man” ở khắp các châu lục.
Xuất phát từ các nước phương Đông, đặc biệt là Việt Nam, nơi chủ nghĩa thực dân Pháp chiếm làm thuộc địa và áp bức dân tộc ta vô cùng tàn bạo, Hồ Chí Minh thấy rõ chủ nghĩa thực dân đã trở thành bản chất gắn liền với chủ nghĩa tư bản khi nó trở thành chủ nghĩa đế quốc và vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa phải là một nhiệm vụ không thể tách rời sự nghiệp cách mạng vô sản. Chính vì vậy, khi gặp Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin, Hồ Chí Minh đã xúc động đến phát khóc và thực sự tìm được con đường giải phóng dân tộc mình trong mối quan hệ với chủ nghĩa Lênin và sự nghiệp cách mạng vô sản.
Tại buổi họp của Đảng Xã hội Pháp, khi được nữ đồng chí Rose hỏi tại sao đồng chí lại bỏ phiếu cho Quốc tế III của Lênin, Hồ Chí Minh trả lời ngay: “Rất đơn giản. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác! Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý ván đề giải phóng thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”. Từ đó, Người suy nghĩ nhiều về phương pháp cách mạng, nhất là việc vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam.
Có thể nói, cũng từ khi đọc Sơ thảo những luận cương về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, tán thành Quốc tế III, trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh mới thực sự bắt đầu cuộc hành trình cách mạng theo mục tiêu giải phóng dân tộc gắn liền với lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong Lời kêu gọi của báo Le Paria, số 1, ngày 1-4-1922, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh viết: “Báo kêu gọi họ đoàn kết lại, đấu tranh cho tiến bộ về vật chất và tinh thần của chính họ. Báo kêu gọi họ, tổ chức họ, nhằm mục đích giải phóng những người bị áp bức khỏi các lực lượng thống trị, thực hiện tình thương yêu và bác ái”… “Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được. Đó là giải phóng loài người".
Với mục đích giải phóng loài người, Hồ Chí Minh tập hợp lực lượng từ những người bị áp bức, bóc lột ở khắp các châu lục gồm các bạn da đen, da vàng, da trắng, thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa, thực hiện mục tiêu Đoàn kết tạo ra sức mạnh, và hợp tác xuất bản báo Le Paria. Trong truyền đơn cổ động mua báo Le Paria, sau khi khẳng định “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi ngwofi và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…”, Hồ Chí Minh viết: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”
Như vậy là, sau khẩu hiệu của Mác, Ăngghen: “Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại!”, thì khẩu hiệu của Hồ Chí Minh: “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!” là một bước phát triển nhận thức mới về động lực và sách lược cách mạng, đáp ứng đúng yêu cầu mới của tình hình thế giới. Bởi lẽ, trong thời đại chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, hầu hết các dân tộc kém phát triển, với hơn 70% dân số và diện tích đất đai trên thế giới, đã trở thành thuộc địa các nước tư bản phát triển. Chủ nghĩa tư bản tồn tại và phát triển không chỉ do bóc lột giai cấp công nhân ở “chính quốc” mà chủ yếu là chiếm đoạt của cải, tài nguyên và bóc lột tàn nhẫn nhân dân lao động ở các nước thuộc địa của chúng.
Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn viêt cả một cuốn sách nhan đề Bản án chế độ thực dân Phápđể vạch trần bản chất thâm độc của chủ nghĩa thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam bằng những số liệu thật cụ thể, rõ rằng, không thể chối cãi. Với sự ra đời Bản án chế độ thực dân Pháp, có thể coi đó là một bản cáo trạng hùng hồn và đanh thép mang tầm thời đại không chỉ đối với thực dân Pháp mà là đối với chủ nghĩa thực dân cũ nói chung trên phạm vi toàn cầu.
Thiết tưởng những bằng chứng cụ thể và hùng hồn đó đã nói lên khá thuyết phục về sự thay đổi cục diện cách mạng so với thời đại của Mác, Ăngghen khi các ông viết Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Phải chăng, cũng chính vì vậy, Lênin mới viết Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa và thành lập quốc tế III thay Quốc tế I và II do Mác và Ăngghen sáng lập. Với phong trào cách mạng vô sản thì phải thấy đây là một bước ngoặt vô cùng quan trọng. Cũng từ đó, sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa không còn là việc riêng của giai cấp vô sản ở các nước được gọi là “chính quốc” mà đã trở thành mục tiêu chung của toàn nhân loại, trong đó có công nhân, nông dân, trí thức và nói chung là nhân dân lao động.
Vì vậy, với khẩu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”, Hồ Chí Minh đã đặt ra một mục tiêu mới có ý nghĩa nhân văn, khoa học sâu sắc cho sự nghiệp cách mạng vô sản vào thời điểm chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế quốc. Nó chẳng những tiếp thu một cách tích cực và sáng tạo mà còn cụ thế hóa khẩu hiệu Vô sản tất cả các nước và các dân tộc thuộc địa, đoàn kết lại! của Lênin. Bởi lẽ, Lênin chỉ mới nói đến các dân tộc thuộc địa, chưa nói rõ con người là lực lượng cách mạng hùng hậu ở các dân tộc thuộc địa, không chỉ có giai cấp công nhân mà chủ yếu là nhân dân lao động thuộc giai cấp nông dân, trí thức tiểu tư sản, thậm chỉ cả giai cấp tư sản dân tộc nhỏ bé và có tinh thần yêu nước.
Với khấu hiệu “Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại!”, từ nay sự nghiệp cách mạng vô sản theo mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội không còn giành riêng cho giai cấp công nhân ở các nước tư bản phát triển được gọi là “chính quốc” mà đã trở thành mục tiêu chung của nhân loại toàn thế giới với hàng tỷ người lao động. Chủ nghĩa xã hội không còn dành riêng cho người da trắng như có lần Hồ Chí Minh phê phán sự lầm tưởng của các đảng cộng sản ở các nước tư bản phát triển khi họ không quan tâm đến các dân tộc thuộc địa, mà đã trở thành mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ.
Như vậy, từ chỗ nêu rõ mục tiêu “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”, Hồ Chí Minh vận dụng sáng tạo đồng thời phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin Vô sản tất cả các nước và các dân tộc thuộc địa, đoàn kết lại! vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam và các nước phương Đông thành khẩu hiệu Lao động tất cả các nước, đoàn kết lại! nhằm nêu cao ngọn cờ chủ nghĩa dân tộc chân chính nhân danh Quốc tế cộng sản “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
"Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta" là một quan điểm có nguồn gốc từ học thuyết Mác, như Ăngghen đã từng khẳng định: “Việc giải phóng những người lao động phải là sự nghiệp của bản thân những người lao động”. Hồ Chí Minh không chỉ tin vào con người, tin ở sức mạnh quần chúng, chủ thế của cách mạng, hơn thế, Người còn làm cho mọi người tin vào sức mạnh của chính mình, của dân tộc mình.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân, Người đã nói với các bạn cùng chiến đấu: “Vận dụng công thức của Các Mác chúng tôi xin nới với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng nỗ lực của bản thân anh em”. Với tinh thần đó, Hồ Chí Minh tin rằng người Đông Dương, châu Á và Việt Nam nói riêng có khả năng nổi dậy đánh đuổi kẻ thù xâm lược. Hơn nữa, Người còn thấy họ có khả năng giúp người phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Với niềm tin mãnh liệt ở sức mình, dân tộc mình, Người nói: “Cách mạng ở các nước thuộc địa có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản chính quốc và tác động trở lại thúc đẩy cách mạng chính quốc. Nhân dân Việt Nam hoàn toàn có thể chủ động đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”. Không ỷ lại chờ đợi cách mạng chính quốc.
Điều này hình như có khác với những luận điệu của bọn theo chủ nghĩa cải lương tưởng rằng chỉ khi nào các nước được gọi là “chính quốc” thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng của mình, các dân tộc thuộc địa mới có điều kiện tiến hành cách mạng được. Hồ Chí Minh ngay từ khi tìm thấy con đường cứu nước, đã không bao giờ nghĩ rằng phải chờ cách mạng ở các nước “chính quốc” mới tiến hành cách mạng giải phóng các dân tộc.
Đây cũng là chỗ khác giữa Lênin và bọn theo đệ nghị quốc tế. Tiếp thu ý kiến của Lênin, Hồ Chí Minh chủ trương cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa, đồng thời tìm ra phương pháp cách mạng đúng đắn cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
“Đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, theo Hồ Chí Minh cũng đồng nghĩa với việc tìm ra con đường chiến thắng kẻ thù và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thích hợp với điều kiện mỗi dân tộc.
Ý nghĩa cách mạng, nhân văn của quan điểm trên là ở chỗ, từ nay con người có thể tự làm chủ bản thân, không chờ đợi một vị cứu tinh nào đến cứu mình, giải thoát cho mình như quan niệm của các tôn giáo. Cũng từ nay, con người có thể vươn lên làm chủ xã hội, có thể biến một xã hội còn lạc hậu, kém phát triển thành một xã hội có văn hóa cao, có đời sống vui tươi, hạnh phúc.
Chúng ta đều biết con đường cứu nước, cứu dân mà Hồ Chí Minh tìm thấy sau 10 năm bôn ba khắp thế giới là con đường đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin. Ngay sau khi gửi bản Yêu sách của nhân dân An Namđến Hội nghị Véc-xây không đạt kết quả, Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”. Song, vấn đề không chỉ ở chỗ cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã hội Việt Nam hay dân tộc gắn với quốc tế, mà còn ở chỗ, đối với các dân tộc còn lạc hậu chưa phát triển như dân tộc ta, quan niệm về mục tiêu xây dựng xã hội như thế nào là đúng với tinh thần nhân văn theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu chủ nghĩa xã hội là một mục tiêu hành động thể hiện chủ nghĩa nhân văn mác-xít, thì đối với Hồ Chí Minh chỉ có hành động xây dựng chủ nghĩa xã hội thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh của mỗi dân tộc mới là mục tiêu chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc.
Ngay sau khi tìm thấy con đường cứu nước, cứu dân, Hồ Chí Minh khẳng định rõ ràng hơn, dứt khoát hơn con đường đã chọn: “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết ấm no trên trái đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc, nói tóm lại là nền cộng hòa thế giới chân chính, xóa bỏ những biên giới tư bản chủ nghĩa cho đến nay chỉ là những vách tường dài ngăn cản những người lao động trên thế giới hiểu nhau và yêu thương nhau”. Câu nói trên không chỉ bộc lộ quan niệm nhân văn về chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, mà còn cho chúng ta thấy chủ nghĩa xã hội có thể thiết lập được trên toàn thế giới một nền cộng hòa thế giới chân chính. Điều đó tưởng như một quan niệm không tưởng, duy ý chí về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Song, nếu hiểu đúng quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh mỗi quốc gia dân tộc thì chúng ta sẽ đồng tình với quan điểm của Người. Bởi lẽ, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển cao trở thành chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm các dân tộc làm thuộc địa của chúng và ngày nay còn bước vào giai đoạn toàn cầu hóa theo hướng tư bản chủ nghĩa, thì mỗi quốc gia dân tộc chỉ có thể phát triển theo hai cách lựa chọn:
Một là, sự lựa chọn phát triển đất nước theo con đường định sẵn của chủ nghĩa tư bản, nghĩa là vẫn phải thừa nhận sự áp bức, bóc lột theo chủ nghĩa tư bản, mà hiện nay được thế giới gọi là con ddwonwfg phát triển theo chủ nghĩa “tự do”. Tự do ở đây là tự do theo kiểu tư bản chủ nghĩa, trong đó có tự do bóc lột, tự do tìm lợi nhuận tối đa bằng con đường cạnh tranh khốc liệt theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”, mạnh được, yếu thua, mạnh thì lên ngôi vua, thua thì bị loại, thế thôi! Dĩ nhiên, theo con đường này cũng có mặt hợp lý nhất định của nó ở chỗ, nó kích thích con người năng động, kích thích làm giàu, kích thích sáng tạo, kích thích phát triển tài năng… Chỉ với bấy nhiêu điều kích thích cũng đủ cho chủ nghĩa tư bản phấn khích và tự hào về tính ưu việt của nó.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phấn khích và niềm tự hào đó, nhân loại tiến bộ đều thấy bản chất chủ nghĩa tư bản, nhất là khi nó đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, là độc ác, là tàn bạo, là phi nhân bản, dẫn loài người đến sự phân hóa cao độ, khiến cho thế giới luôn bị chia thành hai cực: một số ít người có của bằng cách này hay cách khác thống trị và bóc lột đại đa số những người lao động chân chính. Đó là nhìn một cách khái quát.
Ngày này, với học thuyết “chủ nghĩa tự do mới”, trong bối cảnh toàn cầu hóa, chủ nghĩa tư bản hô hào phải để cho các công ty tư bản xuyên quốc gia đến bất cứ nơi nào trên thế giới để hạn chế chi phí đến mức thấp nhất và kiếm được lợi nhuận nhiều nhất. Theo con đường của học thuyết “chủ nghĩa tự do mới”, nguồn vốn tư bản có thể di chuyển đến bất cứ nơi nào chủ nghĩa tư bản có thể kiếm lợi nhuận tối đa, bất chấp cuộc sống cần sự ổn định của các quốc gia đang phát triển.
Thực chất, đó là con đường của chủ nghĩa tư bản khi đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, chúng lũng đoạn và ngự trị các nước kém phát triển không chỉ bằng sức mạnh quân sự mà bằng cả kinh tế buộc các nước theo nó phải phụ thuộc nó vào kinh tế. Thế giới như vậy sẽ không bao giờ có sự ổn định, sẽ dẫn đến tình trạng đói nghèo tràn lan và những tệ nạn xã hội nghiêm trọng, trong đó có nạn khủng bố và nhiều tệ nạn khác mang tính toàn cầu khó có thể kiểm soát và khắc phục được.
Nhưng, thế giới vẫn còn một cách lựa chọn con đường thứ hai, sau khi ra đời học thuyết Mác, nhất là sau Cách mạng tháng Mười Nga với sự hình thành Liên bang Xô-viết, nhà nước đầu tiên của con đường phát triển chủ nghĩa xã hội. Con đường này mới hình thành và chỉ trở thành hiện thực hơn 70 năm so với nhiều thế kỷ tồn tại chủ nghĩa tư bản, thì quả là một thời gian quá ngắn. Hơn nữa, với thời gian ngắn ngủi ấy, nó chưa kịp phát huy hết tính ưu việt của nó, thì đã bộc lộ những yếu kém, bất cập, khiến cho nhiều người phải hoài nghi, thậm chí muốn từ bỏ cách lựa chọn này.
Song, với tính ưu việt và đặc biệt là tính nhân văn sâu sắc của nó, chủ nghĩa xã hội vẫn là hoài bão của nhân loại tiến bộ, sớm muộn nó sẽ được phục hồi và phát triển mạnh mẽ như hiện tượng mới đây ở các nước Mỹ - Latinh. Nước ta có vinh dự đang góp phần chứng minh cho tính ưu việt và tính nhân văn của chủ nghĩa xã hội, mặc dù gặp những khó khăn và thách thức khó lường trong bối cảnh thế giới có những diễn biến phức tạp.
Dĩ nhiên, đó chỉ là hai con đường chính, tựa như ngày và đêm, trời với đất. Cuộc sống vốn muôn màu muôn vẻ, rất phong phú, đa dạng và phức tạp. Bên cạnh hai con đường chính ấy có những cách lựa chọn con đường khác, cũng có thể gọi là con đường thứ ba, nhưng xét cho cùng, con đường thứ ba này vẫn chịu ảnh hưởng của hai con đường chính: chủ nghĩa tư bản hay chủ nghĩa xã hội, nếu xét từ bản chất của nó về cơ chế và tổ chức xã hội.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã tiếp cận với con đường lựa chọn chủ nghĩa xã hội, vì thấy rằng chỉ có cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giải phóng được dân tộc, giải phóng con người. Từ đó, Người kiên trì sự lựa chọn con đường kết hợp cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó lặ quyết định vô cùng sáng suốt, đã đem lại cho đất nước ta những thắng lợi vẻ vang mà cả nhân loại tiến bộ đều thừa nhận.
Nhưng, trong thực tế, con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng ta lựa chọn chỉ mới vượt qua được giai đoạn đầu, nghĩa là mới giải phóng được dân tộc về mặt chính trị. Khi bước sang giai đoạn phát triển đất nước thống nhất theo mục tiêu chủ nghĩa xã hội, sự nghiệp cách mạng nước ta đã vấp ngay những khó khăn, thách thức. May mà Đảng ta đã kịp thời khởi xướng sự nghiệp đổi mới, đất nước khắc phục được những khủng hoảng và phát triển nhanh chóng, song phải chấp nhận cơ chế thị trường với những điều kiện mở cửa hội nhập kinh tế theo xu hướng toàn cầu hóa. Thực tế đang chứng minh rằng gần 1/4 thế kỷ (24 năm) đất nước đổi mới là một thắng lợi to lớn không thể phủ nhận, nhưng đồng thời cũng đặt ra biết bao điều cần suy nghĩ, cần nghiên cứu, cả về lý luận và tình hình thực tế.
Quả là, hiện nay đứng trước tình hình mới, thế giới đã bước vào thời kỳ phát triển toàn cầu hóa, chủ nghĩa rư bản vẫn tỏ ra thắng thế, chủ nghĩa xã hội lại có hiện tượng thoái trào, thậm chí tan rã, liệu con đường lựa chọn của Hồ Chí Minh và Đảng ta có đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước hay không, rõ ràng đây vừa là thời cơ vừa là thách thức lớn đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Song, có thể khẳng định nếu không tiếp tục sự lựa chọn phát triển đất nước theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội thì có thể nói chủ nghĩa nhân văn và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ không còn giá trị lý luận và ý nghĩa thực tiễn nữa. Do đó, cần phải nghiêm túc tìm hiểu tình hình đất nước và bối cảnh thế giới nhằm rút ra những bài học cần thiết không phải để từ bỏ con đường đã chọn mà là tìm lối ra cho con đường phát triển chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó cũng chính là phong cách và bản lĩnh của cha ông ta mà Hồ Chí Minh là tấm gương tiêu biểu.
Khi đề ra mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, một mặt, Hồ Chí Minh không có suy nghĩ không tưởng, duy ý chí; mặt khác, Người không chờ chủ nghĩa xã hội tự khắc đến với những dân tộc kém phát triển như dân tộc ta. Chính vì vậy, Người cố gắng vận dụng sáng tạo đồng thời phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm cho mình một quan niệm mới và nhất là một phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với đất nước ta.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản không phải từ trên trời rơi xuống mà chính là do con người tạo nên, con người tự nâng mình lên thành người chủ xã hội để chiến thắng mọi trở ngại, để xây dựng một xã hội mới ấm no hạnh phúc. Đây chính là chủ nghĩa nhân văn mới, chủ nghĩa nhân văn chiến đấu theo tư tưởng Hồ Chí Minh được khái quát bằng một chân lý bất diệt “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh xuất hiện dưới dạng khẩu hiệu chính trị ở Việt Nam khi đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh đến giai đoạn cùng cực và tuyệt vọng. Nó bộc lộ bản chất hung ác, tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc ngay cả khi chúng đã phải từ bỏ chủ nghĩa thực dân cũ, và khi thế giới đã bước vào nền văn minh mới. Điều đó càng nói lên rằng, trong thời đại hiện nay, bản chất chủ nghĩa tư bản khi đã trở thành chủ nghĩa đế quốc, không những nó không thay đổi mà càng bộc lộ bản chất hung ác, xảo quyệt hơn. Âm mưu xâm chiếm hoặc chinh phục các nước kém phát triển trở thành phụ thuộc các nước đế quốc vẫn là mục tiêu của chúng, không hề thay đổi, dù cho về phương pháp thực hiện chúng mềm dẻo hơn, tinh vi hơn bằng những “diễn biến hòa bình” hoặc mua chuộc làm tha hóa nhân dân các dân tộc mà chúng muốn chinh phục.
Những năm gần đây khi bước vào thiên niên kỷ mới, thế kỷ XXI, nhân loại vẫn phải chứng kiến những cảnh các nước đế quốc, đặc biệt là đế quốc Mỹ, gây ra những cuộc xâm chiếm tàn ác và trắng trợn đối với các nước bị chúng xem là thù địch mà tiêu biểu là Nam tư cũ và gần đây là I-rắc, đồng thời đe dọa nhiều nước yếu kém khác. Hiện tượng đó một lần nữa chứng tỏ chủ nghĩa đế quốc không bao giờ thay đổi bản chất của chúng cho dù chiến tranh lạnh đã kết thúc, các nước xã hội chủ nghĩa đặc biệt là Liên Xô cũ, không còn là mối đe dọa như chúng vẫn thường rêu rao trước đây.
Chính vì chủ nghĩa đế quốc không chỉ tồn tại mà còn ngày càng trở nên hung ác, xảo quyệt, các nước kém phát triển cũng như các dân tộc lạc hậu trên khắp các châu lục, hơn lúc nào hết, càng phải hết sức cảnh giác, do đó tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” càng có ý nghĩa thiết thực, cổ vũ tinh thần cách mạng đối với các dân tộc kém phát triển.
Rõ ràng, ngày nay chỉ có độc lập dân tộc thật sự mới có tự do thật sự. Điều đó không chỉ đúng với các dân tộc vốn là thuộc địa vừa thoát khỏi chủ nghĩa thực dân cũ và mới, mà cũng đúng với tất cả các nước đang trong vòng ảnh hưởng của các nước lớn vốn là những nước tư bản chủ nghĩa đã trở thành đế quốc chủ nghĩa. Vì vậy, tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Hồ Chí Minh càng mang ý nghĩa quốc tế sâu sắc và càng có giá trị trường tồn. Khi bọn đế quốc còn nêu cao ngọn cờ nhân quyền với mục đích đe dọa chủ quyền các nước đang phát triển thì tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” càng trở thành ngọn đuốc soi đường cho các dân tộc bảo vệ những quyền lợi chính đáng của mình.
Chính vì những lẽ đó, khi nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh trước tiên phải nói đến mục tiêu giải phóng các dân tộc. Bởi lẽ, chỉ có các dân tộc được giải phóng thì mới nói đến giải phóng con người. Trái lại, khi các dân tộc chưa có độc lập thật sự thì con người cũng chưa thể có tự do thật sự. Nếu độc lập và tự do vốn gắn liền với truyền thống nhân văn, nhân đạo của mọi thời đại thì với chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, độc lập và tự do càng trở nên quý báu hơn bao giờ hết, không có gì quý bằng. Vì thế, ý nghĩa và tầm vóc của tư tưởng “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vượt ra khỏi không gian nước ta và đến với nhiều dân tộc trên thế giới như một chân lý bất diệt của thời đại chống chủ nghĩa đế quốc toàn cầu.
Theo Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Ngày 8/2/2012.
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn