Việc xác định được nhiệm vụ công tác Đoàn cụ thể trong từng thời kỳ, thời điểm đối với người cán bộ Đoàn là hết sức quan trọng. Khi đã xác định rõ nhiệm vụ, người cán bộ Đoàn sẽ dễ dàng tổ chức, thực hiện công tác một cách khoa học, mang tính nghệ thuật cao. Từ đó, tổ chức Đoàn mới có thể vận động, khuyến khích được các đoàn viên, thanh niên tham gia hoạt động một cách hăng hái; tránh lãng phí thời gian, công sức; và tranh thủ triệt để nguồn lực cho các phong trào đa dạng.
1. Thái độ và tác phong của người cán bộ Đoàn
Mỗi người cán bộ Đoàn có thái độ và phong cách riêng, có thể mang lại sự hứng thú, ngưỡng mộ của đoàn viên, thanh niên nhưng đôi khi cũng có thể mang lại sự buồn chán và không tôn trọng v.v...
Bên cạnh thái độ, tác phong riêng có, người cán bộ Đoàn cần biết tự rèn luyện thêm thái độ, tác phong thích hợp với vị trí, nhiệm vụ của mình, nhất là tác phong sư phạm. Đương nhiên, sự rèn luyện này cũng sẽ mang lại sự hữu ích cho tương lai, nghề nghiệp của người cán bộ Đoàn sau này. Một số thái độ và tác phong cần được chú ý gồm có:
1.1. Vận động - thuyết phục
Cán bộ Đoàn chính là người làm công tác thanh vậnnnn (vận động thanh niên). Vì vậy, phương pháp chủ yếu mà người cán bộ Đoàn cần áp dụng trong thực hiện nhiệm vụ là vận động, thuyết phục thông qua các hoạt động tuyên truyền, thảo luận dân chủ hay qua kết quả công việc thực tế. Sự vận động, thuyết phục nhằm đạt tới sự thống nhất trong nhận thức và hành động của từng cá nhân, tập thể đối với những công việc nên làm, phải làm v.vvvv
1.2. Biết lắng nghe mọi người
Việc lắng nghe ý kiến người khác là một yêu cầu quan trọng. Qua lắng nghe, người cán bộ Đoàn có thể hiểu tâm tư, nguyện vọng của thanh niên; để biết những yêu cầu mà mình đưa ra có được các thành viên tiếp nhận một cách tự giác hay không. Tuy nhiên, sự lắng nghe không có nghĩa là thụ động mà phải biết giải thích, đối đáp, hướng dẫn, hiểu được những băn khoăn lo lắng của thanh niên để tháo gỡ, giải quyết.
1.3. Làm gương
Lời nói bao giờ cũng phải đi đôi với việc làm. Trong công việc, nhất là việc khó, người cán bộ Đoàn phải biết cùng làm và cùng làm tốt. Đặc biệt, trong việc học tập, người cán bộ Đoàn cần phải đạt kết quả tốt.
Việc tu dưỡng, rèn luyện của người cán bộ Đoàn phải thực sự là tấm gương để đoàn viên, thanh niên noi theo, tự giác chấp hành tốt các qui định chung.
1.4. Nhạy bén, làm việc khoa học
Cán bộ Đoàn thanh niên là người thủ lĩnh của tầng lớp thanh niên trí thức có trình độ cao vì vậy trong quá trình công tác phải luôn thể hiện được sự nhạy bén, tìm phương cách làm việc hiệu quả cao nhất. Người cán bộ Đoàn phải biết thu xếp công việc thật khoa học, có kế hoạch công tác tốt thông qua việc biết phân công, kiểm tra công việc.
1.5. Biểu dương khen thưởng
Người cán bộ Đoàn cần biết biểu dương, khen thưởng kịp thời và công bằng đối với sự đóng góp của cá nhân hay tập thể trước những diễn đàn lớn để tạo được sự khích lệ đối với các cá nhân, tập thể. Đồng thời, tạo ra sự thi đua giữa các cá nhân, tập thể để có thể phát hiện và bồi dưỡng các nhân tố mới cho phong trào.
1.6. Phê bình
Trong công tác phê bình và tự phê bình, người cán bộ Đoàn phải biết phê bình đúng lúc, đúng chỗ, nhẹ nhàng; không làm chạm đến lòng tự trọng của đối tượng, không làm cho đối tượng tự ái.
Đối với thái độ vô trách nhiệm của một cá nhân nào đó, người cán bộ Đoàn nên dùng sức mạnh và ý kiến tập thể để phê phán. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải hết sức độ lượng, không được định kiến, thành kiến, phải định hướng cho cá nhân, tập thể có khuyết điểm sửa chữa lỗi lầm.
1.7. Trung thực, thẳng thắn, gần gũi với thanh niên
Người cán bộ Đoàn cần biết nhận thiếu sót, khuyết điểm và tiếp thu ý kiến đóng góp xây dựng; luôn cởi mở, chân thành và hoà mình với tập thể. Đặc biệt, mạnh dạn đấu tranh phê phán cái sai, kiên quyết bảo vệ lợi ích chính đáng của tập thể, đoàn viên, thanh niên.
1.8. Biết học hỏi
Người cán bộ Đoàn cần chứng tỏ mình là người đang tích cực học tập, nâng cao nhận thức mọi mặt. Có tinh thần cầu thị. Phải luôn tự nghĩ rằng mình còn khuyết điểm và cần được góp ý để hoàn thiện.
2. Nhiệm vụ thường xuyên của người cán bộ Đoàn
Nhiệm vụ người cán bộ Đoàn nói chung là vận động, tổ chức thực hiện Nghị quyết, Điều lệ của Đoàn. Nhiệm vụ người cán bộ trong trường học gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Nhà trường (học tập, giảng dạy, phục vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm,...), nhiệm vụ chính trị địa phương (tham gia phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng) mà Nhà trường đóng trên địa bàn.
Tuy nhiên, không ít cán bộ Đoàn gặp khó khăn, lúng túng trong việc xác định cụ thể nhiệm vụ; được hiểu một cách chung chung. Thực tế cũng cho thấy cái gì Đoàn cũng làm và cũng có thể làm, nếu công tác được cho là hữu ích và cần thiết. Chính điều này làm cho người cán bộ Đoàn luôn rối rắm, bận rộn, cáng đáng nhiều việc và thật khó nói chính xác những nhiệm vụ cụ thể là gì, giới hạn phần việc như thế nào. Đây cũng là đặc thù riêng có của tổ chức Đoàn. Chính nó cũng có mặt tích cực là làm tăng sức hấp dẫn của Đoàn nên người cán bộ Đoàn đừng quá băn khoăn, e ngại về vấn đề này.
Nhiệm vụ cụ thể của người cán bộ Đoàn có thể gồm một số công tác cơ bản như sau:
2.1. Lập kế hoạch công tác:
Một người cán bộ Đoàn phải biết trù tính các hoạt động của Chi đoàn. Sự trù tính này được thể hiện qua các kế hoạch công tác (từng quý, kỳ, thời điểm: 26/03, 20/10, 20/11 ..) phương hướng, chương trình công tác (từng năm học, nhiệm kỳ).
Thông thường, căn cứ vào các Chương trình công tác năm học của Đoàn trường, Phương hướng nhiệm kỳ công tác Đoàn và định hướng của Đảng uỷ (chi uỷ), Ban chủ nhiệm khoa; Ban chấp hành Đoàn khoa họp xây dựng Chương trình công tác năm học, kế hoạch công tác quý, tháng.
Tương tự, Ban chấp hành Chi đoàn xây dựng chương trình, kế hoạch công tác năm, quý, tháng. Đoàn các cấp có thể có các kế hoạch chuyên đề, ví dụ như kế hoạch trại nhân dịp 26/3, tổ chức tham quan dã ngoại, chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 v.v..
Việc lập kế hoạch giúp cho tổ chức Đoàn hình dung trước và chỉ ra được các công việc phải làm cụ thể, nhiệm vụ từng cá nhân, tập thể, thời gian thực hiện công việc, nguồn lực được đảm bảo như thế nào. Đặc biệt là các biện pháp thực hiện và các phương thức kiểm tra, đề phòng rủi ro ra sao.
2.2. Báo cáo:
Việc báo cáo công tác là nhiệm vụ và yêu cầu của hầu hết các tổ chức. Báo cáo là dạng thông tin về kết quả công việc, công tác mà cá nhân, tổ chức đã tiến hành. Qua nội dung báo cáo, các cấp bộ Đoàn sẽ đánh giá lại tình hình hoạt động, có cơ sở thực hiện việc xét thi đua, khen thưởng v.v... hay xem xét các đề xuất, kiến nghị mới.
Báo cáo được thực hiện hàng tháng, quí, năm học hay theo từng chuyên đề. Đặc biệt, các báo cáo của Đại hội thì cần nêu lên được những nhận định, đánh giá.
2.3. Tổ chức sinh hoạt chi đoàn:
Sinh hoạt chi đoàn là một yêu cầu bắt buộc theo qui định của Điều lệ Đoàn. Trách nhiệm tổ chức sinh hoạt chi đoàn thuộc về Ban chấp hành chi đoàn. Mỗi lần sinh hoạt chi đoàn, Ban chấp hành chi đoàn phải ghi biên bản cẩn thận theo hướng dẫn được ghi trong Sổ chi đoàn. Nội dung biên bản sinh hoạt chi đoàn được tập thể chi đoàn thống nhất theo đa số được xem như Nghị quyết của chi đoàn (triển khai các hoạt động, khi kết nạp đoàn viên mới, giới thiệu đoàn viên ưu tú phát triển đảng v.v...).
Sinh hoạt chi đoàn tiến hành định kỳ hàng tháng; theo yêu cầu công tác và phong trào Đoàn.
2.4. Ghi chép, quản lý sổ chi đoàn:
Việc ghi chép, quản lý Sổ chi đoàn là nhiệm vụ của Ban chấp hành các chi đoàn, thực hiện theo hướng dẫn chung.
Ban chấp hành chi đoàn có trách nhiệm giữ Sổ chi đoàn, ghi chép; chuyển bàn giao cho Ban chấp hành chi đoàn nhiệm kỳ mới sau Đại hội; bàn giao lại cho Đoàn cấp trên khi chi đoàn giải tán, kết thúc khoá học.
2.5. Quản lý đoàn phí:
Ban chấp hành Chi đoàn có nhiệm vụ thu và trích nộp đoàn phí hàng tháng theo qui định cho Ban chấp hành Đoàn xã.
2.6. Phân loại đoàn viên, giới thiệu đoàn viên ưu tú và nhận xét đoàn viên hằng năm
Việc phân loại đoàn viên thực hiện theo từng học kỳ, năm học dựa trên Tiêu chuẩn phân loại đoàn viên, cơ sở đoànnnn của Đoàn trường. Kết quả phân loại đoàn viên, thành tích và khuyết điểm chính hằng năm được ghi nhận trong phần nhận xét đoàn viên (trong sổ đoàn viên).
Sau từng học kỳ, Ban chấp hành chi đoàn bình chọn những đoàn viên xuất sắc tham gia bồi dưỡng lớp Đoàn viên ưu tú và giới thiệu Đoàn viên ưu tú có thành tích xuất sắc nhất với Đoàn cấp trên và Chi bộ xem xét kết nạp Đảng.
2.7. Tham gia đánh giá rèn luyện, tổ chức thực hiện công tác xã hội:
Ban chấp hành Đoàn các cấp cần chủ động, giúp đỡ đoàn viên, học sinh thực hiện việc đánh giá rèn luyện và thực hiện công tác xã hội theo qui định của nhà trường; nhất là Ban chấp hành chi đoàn.
Cán bộ Đoàn các cấp cần biết phối hợp các tổ chức trong và ngoài trường để thực hiện có hiệu quả công tác này.
2.8. Chuyển sinh hoạt Đoàn tập trung:
Hằng năm, trước thời gian kết thúc khoá học, Ban chấp hành chi đoàn tiến hành thực hiện chuyển sinh hoạt Đoàn tập trung. Ban chấp hành chi đoàn chịu trách nhiệm thực hiện chuyển sinh hoạt chung cho cả chi đoàn. Đồng thời, Ban chấp hành chi đoàn yêu cầu cá nhân đoàn viên đó liên hệ Đoàn của trường mới để được hướng dẫn tiếp tục sinh hoạt tại chi đoàn mới.
2.9. Phát triển đoàn viên mới:
Đây là nhiệm vụ của mỗi đoàn viên và đương nhiên là nhiệm vụ lớn của người cán bộ Đoàn. Nhiệm vụ này quan trọng góp phần xây dựng Đoàn.
2.10. Xét đề nghị khen thưởng, kỷ luật đoàn viên:
Căn cứ vào hướng dẫn của Đoàn cấp trên, Ban chấp hành Chi đoàn tiến hành xét, đề nghị khen thưởng (từng học kỳ, năm học, đợt công tác).
Các Chi đoàn cần theo dõi và xử lý kỷ luật kịp thời đối với các trường hợp đoàn viên vi phạm Điều lệ Đoàn, Quy định về học tập, sinh hoạt nội, ngoại trú hay các Qui định, Quy chế khác của Nhà trường v.v.v. theo qui định của Điều lệ Đoàn. Cần đảm bảo Nghị quyết kỷ luật của chi đoàn, cần nêu rõ những ưu, khuyết điểm và các góp ý cho cá nhân đoàn viên có sai phạm nhận ra thiếu sót, sai trái để sửa chữa tốt hơn.
2.11. Duy trì liên hệ với Đoàn các cấp, tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng:
Cán bộ Đoàn các cấp cần biết xây dựng các mối liên hệ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Đặc biệt Đoàn xã, huyện đoàn cần tranh thủ sự lãnh đạo, sự giúp đỡ của cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương.
2.12. Các công tác khác:
Bên cạnh những công tác thường xuyên, định kỳ; trong hoạt động Đoàn thường có những công tác đột xuất, bất thường do yêu cầu của nhiệm vụ chính trị hay do nguyện vọng của đoàn viên v.v....đặt ra. Trong trường hợp đó, người cán bộ Đoàn có nhiệm vụ quan trọng là phải vận động, điều động đoàn viên, thanh niên tham gia đầy đủ, kịp thời các hoạt động này; thể hiện tinh thần xung kích của Đoàn.
Tóm lại, người cán bộ Đoàn cần thường xuyên rèn luyện thái độ và tác phong của mình. Thái độ và tác phong người cán bộ Đoàn cũng là hình ảnh của tổ chức Đoàn; chính nó sẽ tạo nên sức hấp dẫn cho tổ chức Đoàn. Nhiệm vụ người các cấp bộ Đoàn rất đa dạng, phong phú, và luôn như mới mẻ. Nhiệm vụ này rất cần sự nhạy bén và khả năng tổ chức công việc một cách khoa học, sáng tạo và có kế hoạch của người cán bộ Đoàn. Người cán bộ Đoàn cần xác định được những nhiệm vụ nào là cơ bản nhất để tập trung giải quyết. Đặc biệt, người cán bộ Đoàn phải chú trọng các yêu cầu trong công tác đoàn vụ như báo cáo công tác, tổ chức sinh hoạt, quản lý đoàn viên - sổ đoàn viên, phân loại, nhận xét đoàn viên, phát triển đoàn viên mới, tham gia đánh giá rèn luyện, hỗ trợ thực hiện tín chỉ công tác xã hội, xét đề nghị khen thưởng - kỷ luật ...
II. CÁC KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA NGƯỜI CÁN BỘ ĐOÀN
1.1. Kỹ năng tham mưu, lãnh đạo:
- Tham mưu với cấp uỷ Đảng, Đoàn cấp trên những vấn đề liên quan đến công tác thanh niên, những vấn đề phát sinh cần sự hỗ trợ giúp đỡ.
- Lãnh đạo trong công tác, định hướng hoạt động của chi đoàn.
- Lãnh đạo về mặt tư tưởng, nắm bắt tư tưởng đoàn viên thanh niên, tác động, tổ chức sinh hoạt tư tưởng.
1.2. Kỹ năng điều hành, quản lý:
- Điều hành sinh hoạt chi đoàn, hoạt động của Ban chấp hành, phân công phân nhiệm vụ cho ủy viên Ban chấp hành.
- Quản lý cán bộ chi đoàn về công việc, về tư tưởng.
- Quản lý hồ sơ đoàn viên, cán bộ, sổ chi đoàn, các văn bản quyết định
1.3. Kỹ năng tổ chức hoạt động:
- Biết thiết kế nội dung chương trình một hoạt động, đợt hoạt động, tổ chức phát động một phong tràoooo
- Biết làm công tác đoàn vụ, các hội nghị, buổi lễ kết nạp, trưởng thành Đoàn, đại hội, hội nghị chi đoàn.
- Biết phân công đoàn viên phụ trách các công việc trong chương trình hoạt động
- Tổ chức sinh hoạt trò chơi, múa, hát, sinh hoạt tập thể, kể chuyện vui, đọc, ngâm thơ .
- Thiết kế một tiết mục sân khấu hóa, tiểu phẩm.
1.4. Kỹ năng soạn thảo văn bản, trình bày, triển khai một vấn đề:
- Soạn thảo các loại văn bản của chi đoàn như: chương trình, kế hoạch, báo cáo, kiểm điểm, biên bảnnnn
- Biết tổ chức triển khai trình bày một nội dung, một chủ trương, quan điểm, nghị quyết của Đoàn, Đảng.
1.5. Kỹ năng ứng xử, xử lý các mối quan hệ:
- Xử lý các tình huống trong công tác Đoàn.
- Xử lý các tình huống phát sinh trong quan hệ cá nhân của đoàn viên thanh niên.
- Xác định vai trò vị trí của chi đoàn, Bí thư chi đoàn trong mối quan hệ với với Đoàn cấp trên, với cấp ủy, với các tổ tổ chức đoàn thể khác.
2. Kỹ năng trình bày của người cán bộ Đoàn
Trong rất nhiều kỹ năng cần thiết đối với người cán bộ Đoàn, một kỹ năng không thể thiếu được đó là kỹ năng trình bày.
Để trình bày tốt một vấn đề đặt ra, người cán bộ Đoàn cần có các kỹ năng cụ thể sau:
+ Lắng nghe chăm chú
+ Diễn đạt đơn giản
+ Định nghĩa trong sáng, rõ ràng
+ Quan tâm đến phản ứng của người nghe
+ Gây ảnh hưởng
+ Giải quyết thắc mắc
Người cán bộ Đoàn là thủ lĩnh của Thanh niên, để làm tốt nhiệm vụ đó họ phải là người có tâm huyết với nghề nghiệp hoạt động chính trị xã hội. Nắm vững phương pháp luận khoa học, có kiến thức xã hội đủ rộng. Thông thạo nghiệp vụ Đoàn - Hội - Đội và có kỹ năng công tác thanh thiếu niên.
Chúng ta đều biết, nghe thật tốt những ý người khác đang nói với chúng ta thì chúng ta mới có thể nói chuyện tốt được. Có ba yếu tố trong việc lắng nghe chăm chú đó là nghe - hiểu và vận dụng. Để hiểu được nghĩa chúng ta phải có một số kiến thức hoặc kinh nghiệm để có thể liên hệ với những điều mà chúng ta đang nghe. Nếu chúng ta có thể thiết lập được các mối liên hệ thì sự am hiểu của chúng ta sẽ phát triển và có được thông tin. Khi có được thông tin chúng ta nên vận dụng nó, có nghĩa là đặt thông tin vào trong từ ngữ với mối liên hệ với những điều đã biết. Điều đó thể hiện mức độ của sự am hiểu về thông tin mới.
Diễn đạt thông tin đơn giản có nghĩa sử dụng ngôn ngữ thông dụng bằng cách xây dựng những câu mang một thông điệp đơn giản. Các từ và câu càng đơn giản bao nhiêu thì người nghe càng dễ hiểu và dễ nắm bắt bấy nhiêu.
Định nghĩa trong sáng, rõ ràng có nghĩa là nếu trong khi đang nói chúng ta có thể làm rõ ý nêu ra thì rất có ích cho những người nghe. Có thể làm rõ những điều ta đang nói bằng cách đưa ra những ví dụ trực quan để minh họa.
Trong khi trình bày hãy quan tâm đến phản ứng của người nghe: Nếu người trình bày quan tâm đến phản ứng của người nghe bằng những biểu hiện cụ thể của họ như: sự mỉm cười, động tác gật đầu, vẻ không mệt mỏi... Thì bản thân người trình bày có thể điều chỉnh những điều họ đang nói để đáp ứng lại các phản ứng của người ngồi nghe một cách tích cực hơn. Người trình bày có thể dừng lại và bình luận về một phản ứng của người nghe, để người nghe được giải thích một cách rõ ràng hơn. Đây là cách tiếp cận tốt hơn nhiều so với việc bỏ qua những phản ứng kể cả với phản ứng tiêu cực của người nghe.
Gây ảnh hưởng: Để mọi người chăm chú lắng nghe là một việc khó, nếu người trình bày không có sự tác động thêm vào để thu hút sự chú ý thì người nghe chỉ có thể tập trung lắng nghe trong vòng vài phút đầu. Để gây ảnh hưởng, cứ 05 phút một người trình bày nên đưa ra một câu nói tác động đến người nghe là điều rất quan trọng. Người nghe sẽ chăm chú lắng nghe nếu người trình bày nói với tốc độ khoảng 100 từ/ phút, nếu nhanh hơn tốc độ đó họ sẽ khó lắng nghe, còn chậm hơn thì người nghe sẽ cảm thấy sốt ruột. Với tốc độ trình bày như vậy, cho phép người trình bày có khoảng thời gian nhấn mạnh, ngắt quãng và tận dụng được khoảng thời gian im lặng. Giá trị của điều chúng ta nói ra là thông điệp gửi tới người nghe, giá trị của chúng ta nói là người nghe lắng nghe chăm chú và hiểu được thông điệp đó.
Giải quyết thắc mắc: Những người nghe có thể đặt câu hỏi với người trình bày, những câu hỏi này chủ yếu để người nghe khẳng định lại những hiểu biết của mình. Để giải đáp người trình bày cần đưa ra thêm nhiều thông tin cụ thể hơn là việc nhắc lại những điều đã nói. Điều quan trọng là nên giải quyết thắc mắc từ quan điểm thực tế của mỗi cá nhân.
Hiểu được kỹ năng trình bày và biết vận dụng nó một cách thường xuyên giúp người cán bộ Đoàn hoàn thành tốt hơn công việc của mình đặc biệt với vai trò là người thủ lĩnh của Thanh niên.
3. Kỹ năng nói trước công chúng
3.1. Đặt vấn đề
- Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, cùng với các loại hình truyền thông khác, 'kỹ năng nói' ngày càng đóng vai trò tích cực. Muốn thuyết phục các bạn trẻ và công chúng nói chung, muốn truyền đạt các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, chủ trương công tác của Đoàn, Hội, mỗi cán bộ Đoàn trường học bên cạnh việc biết viết và biết tổ chức các hoạt động, cần phải biết nói, hơn nữa cần biết nói hay, nói giỏi.
- Nói trước công chúng là một nghệ thuật có những quy tắc riêng. Biết tuân thủ những quy tắc ấy và kiên trì tập luyện thì ai cũng có thể thu được kết quả mong muốn.
- Nói trước công chúng có nhiều hình thức khác nhau:
+ Phát biểu ý kiến ngắn trước tập thể.
+ Tranh luận, thảo luận.
+ Tránh bày nội dung của một văn kiện, một chủ trương công tác.
+ Nói chuyện thời sự, nói chuyện chuyên đề.
+ Giảng bài.
Tuy nhiên, về mục đích thì lại thống nhất. Ai cũng muốn làm cho người khác hiểu ý mình, đồng ý tán thành ý kiến của mình, chăm chú lắng nghe và khen ngợi mình về sự sâu sắc của nội dung, về tài thuyết khách, tài hùng biện, khả năng dí dỏm, tích trí tuệ, tính lôgíc, hệ thống của bài nói, bài phát biểu...
Dưới đây là một hệ thống các quy tắc, đòi hỏi mỗi cán bộ Đoàn, Hội, muốn thành công, muốn nâng cao tay nghề trong việc thu phục các bạn trẻ thông qua ngôn ngữ nói, cần phải rèn luyện và tuân thủ.
3.2. Những quy tắc mang tính kỹ năng
Quy tắc 1: Rèn luyện sự tự tin vào chính bản thân mình
Tự mình phán xét hay nhờ bạn thân nhận xét về khả năng của bạn.
Tăng cường quan hệ với những người tin bạn, tin ở sự thành công, tránh xa những kẻ hoài nghi, rèm pha.
+ Tập nói thường xuyên, lúc đầu nói ít, nói ngắn, sau quen dần sẽ nói nhiều hơn trong khoảng thời gian dài hơn.
+ Nhớ kỹ câu này: 'Tập đi rồi hãy tập chạy'. Thành công được một vài lần, sau rất dễ thành công.
+ Tìm thêm động lực bằng sự khích lệ của bạn bè.
+ Luôn luôn yêu cái thật, cái tốt, cái đẹp.
+ Nhớ rằng người nghe vốn sẵn có thiện cảm với diễn giả.
+ Đừng để ý nhiều đến dư luận. Biết dư luận để sửa các khuyết tật của mình là cần thiết, song từ đó lại kém tự tin, rụt rè thì có hại. Nên hiểu rằng: Dư luận cũng có khi sai, chân lý không phải bao giờ cũng thuộc về số đông.
Quy tắc 2: Cần tuân thủ các bước khi chuẩn bị bài nói (diễn văn, bài nói chuyện, chuyên đề...)
+ Chọn đề tài mà bạn thấy thích thú và muốn nói trước công chúng.
+ Luôn nhớ tính nhất quán của vấn đề định trình bày, tìm mọi cách để đạt tới mục tiêu chính của đề tài.
+ Lập đề cương sơ bộ, bao gồm những ý chính cần nói.
+ Tìm ý phụ và các tư liệu bằng cách trả lời 6 câu hỏi sau đây: Ai? Cái gì? Ở đâu? Bằng cách nào? Ra sao? Khi nào?.
+ Ghi chép ngay những ý mới xuất hiện trong đầu bạn.
+ Sắp xếp các ý một cách rõ ràng, rành mạch.
+ Lựa chọn nhiều chứng cớ, thí dụ để minh họa cho sinh động.
+ Phải biết tự hạn chế. Khi nào bỏ đi 5, 6 ý, chỉ giữ lại 3, 4 ý mà không thấy tiếc thì bài nói của bạn mới có hy vọng hấp dẫn người nghe.
- Sắp sếp các ý phụ theo bố cục của các ý chính và có mối liên hệ tự nhiên với nhau.
Quy tắc 3: Rèn luyện trí nhớ
- Soạn xong đề cương bài nói chuyện, bạn cần nhẩm lại, tốt nhất là trong khung cảnh thiên nhiên (vườn hoa, công viên, bờ hồ...).
- Lặp đi lặp lại bài diễn văn trong khi đợi xe, hay đi dạo chơi... có thể nói thành tiếng trong phòng riêng.
- Cố gắng không viết lại toàn bộ bài diễn văn, nếu phải viết thì không nên học thuộc lòng. Chỉ nên ghi lại những ý dễ quên qua các lần lặp lại.
- Muốn nhớ được lâu cần phải:
+ Tập chú ý nhận xét tinh tế, sâu sắc.
+ Tìm các ý độc đáo, khác thường.
+ Lật đi lật lại vấn đề.
+ Công thức hóa các ý.
Ví dụ: Công thức đưa đất nước tiến lên ở các nước phát triển, dựa vào tiềm năng của lớp trẻ: 3 chữ I (Imitate, Initiative, Innovation) nghĩa là bắt chước, cải tiến, cải tổ.
Công thức 5 chữ M do các nhà giáo dục học thế giới tổng kết trong việc định hướng giáo dục thanh thiếu nhi (Man, Machine, Manager, Money, Marketing) nghĩa là trong thời đại ngày nay cần tạo điều kiện để lớp trẻ tự khẳng định mình, tiếp cận với khoa học kỹ thuật hiện đại, trở thành người tự tổ chức cuộc sống của chính mình, biết kiếm tiền một cách chính đáng và dùng tiền hợp lý, biết tiếp cận với thị trường, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Quy tắc 4: Vạn sự khởi đầu nan
Lời mở đầu là hết sức quan trọng.
- Bạn phải làm cho người nghe chú ý tới bạn, có thiện cảm với bạn ngay từ đầu buổi nói chuyện qua phong thái tự tin, cởi mở và chân thành. Hết sức tránh thái độ trịnh trọng giả tạo và suồng sã quá mức.
- Những điều nên tránh:
+ Nếu bạn không có tài khôi hài thì đừng cố làm cho người nghe cười. Bạn sẽ thất bại.
+ Đừng dùng lời lẽ sáo rỗng để vào đề.
+ Không mở đầu bằng một lời xin lỗi giả dối...
- Những phương pháp vào đề cụ thể nên áp dụng
+ Mở đầu bằng một câu chuyện (chuyện cổ tích, chuyện đời thường...)
+ Dẫn lời một danh nhân nào đó, dẫn tục ngữ, ca dao...
+ Đặt một số câu hỏi xoay quanh đề tài.
+ Gợi tính tò mò của người nghe.
+ Làm một điệu bộ gì khác thường hoặc trình bày sự thực dưới một hình thức mới mẻ.
+ Tự giới thiệu mình đối với những người nghe chưa quen biết.
Quy tắc 5: 'Diễn giảng là làm sống lại một đề tài'
- Lời lẽ phải rõ ràng, sáng ý, có mối liên hệ tự nhiên giữa các ý. Đừng lý thuyết nhiều quá.
- Có nhiều phép lập luận (quy nạp, diễn tịch, phân tích - tổng hợp, so sánh...). Tuy nhiên bạn nên tránh.
+ Chưa định nghĩa rõ ràng đã lập luận.
+ Định nghĩa sai.
+ Lấy một trường hợp cá biệt để khái quát thành cái phổ biến.
+ Nhầm lẫn nguyên nhân với kết quả, nguyên nhân với điều kiện, nguyên nhân với nguyên cớ, khả năng và hiện thức, bản chất với hiện tượng, nội dung với hình thức, cái tất nhiên với cái ngẫu nhiên...
+ Vướng vào vòng luẩn quẩn, tự mâu thuẫn với chính mình.
- Có nhiều cách phản bác ý kiến của người khác để bênh vực cho quan niệm của bạn:
+ Tìm ra mâu thuẫn trong cách lập luận của họ.
+ Đưa ra những tài liệu thực tiễn để chứng minh tính sai lầm trong quan niệm của họ (vì thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý), hoặc chỉ ra tính không đáng tin của những tư liệu mà họ dùng.
+ Chỉ ra tính chủ quan, phiến diện trong quan niệm của họ. Nếu đó là những thành kiến, định kiến thì cách tốt nhất là sử dụng các 'phản ví dụ' để bác bỏ.
+ Đối với những lời lẽ mỉa mai, châm chọc thì tốt nhất là nên làm ngơ và tiếp tục trình bày vấn đề của mình.
Quy tắc 6: Không nên coi thường đoạn kết
- Nên viết trước và học thuộc lòng 2, 3 lối kết kết để tuỳ cảm xúc tâm lý của người nghe mà dùng cho thích hợp.
- Những lối kết thông dụng:
+ Tóm tắt ý trong bài nói chuyện, gọn nhưng không thiếu
+ Kết thông qua những lời khuyên mang tính tâm lý, bằng triết lý của cuộc sống đời thường, dễ gây ứng tượng.
+ Khuyến khích người nghe hành động.
+ Đặt một vài câu hỏi, nêu một số vấn đề để người nghe tiếp tục suy nghĩ, tự tìm câu trả lời.
Quy tắc 7: Ý tứ sáng rõ, lời lẽ khúc chiết là tiền đề của thành công
- Muốn cho ý tứ được rõ ràng, sáng rõ bạn phải:
+ Thấu hiểu vấn đề.
+ Không bao giờ xa đề.
+ Biết tự kiềm chế, chỉ nói những điều quan trọng nhất.
+ Không lý thuyết viển vông mà nên đưa ra nhiều ví dụ, nhiều chứng cớ để minh họa.
+ Tránh thói mơ hồ.
- Muốn cho lời lẽ được khúc chiết, bạn phải:
+ Không nên dùng những câu dài quá.
+ Không dùng những điển tích mà nhiều người chưa quen.
+ Tránh dùng danh từ chuyên môn quá hẹp và những từ mới chưa thông dụng. Nếu bắt buộc phải dùng các loại từ trên thì nên giảng cho người nghe hiểu nghĩa.
+ Giảm dị và tự nhiên trong lời nói (không cầu kỳ, hoa mỹ, song cũng không được thô lỗ).
+ Không dùng những câu tối nghĩ như: 'Tôi cần nó hơn anh'.
- Chỉ khi nào người nghe 'trông thấy' được những ý của bạn thì mới hiểu rõ được ý ấy.
Muốn vậy bạn phải:
+ Thường xuyên so sánh, đối chiếu, ví von.
+ Dùng nhiều hình ảnh.
+ Dùng sơ đồ, bảng thống kê, hình vẽ (nếu có thể được).
- Lựa chọn cách lập luận và diễn giải phù hợp với trình độ hiểu biết của số đông người nghe.
- Nếu có thể được thì tập trình bày trước cho các bạn thân, bạn đồng nghiệp để họ góp ý cho những câu, những đoạn cần sửa.
Quy tắc 8: Khắc sâu những ấn tượng khó quên vào đầu óc, tâm trí người nghe
Trình bày rõ ràng, sáng rõ một chân lý chưa đủ, phải làm cho bài nói chuyện của mình thực sự thú vị, hấp dẫn, kích thích người nghe. Muốn vậy, bạn nên theo các cách dưới đây:
- Kể một chuyện lạ (hay chuyện vui) có liên hệ với đời sống hàng ngày của người nghe, gắn chặt với đề tài.
- Dùng càng nhiều hình ảnh càng tốt.
- Làm cho các con số trở nên 'biết nói', đổi những con số trở thành những vật có thể thấy được.
- Nêu ra dồn dập các sự kiện hay dồn dập các câu hỏi.
- Khéo dẫn lời các danh nhân (đưa vào những chỗ thích hợp để có thêm 'sức mạnh' cho lập luận).
- Tuỳ từng trường hợp mà áp dụng: khen trước chê sau (nếu muốn chê) và chê trước khen sau (nếu muốn khen). Có khi chê để mà khen và khen để mà chê.
- Khi cần thiết có thể dùng cách nói cực đoan hóa, tuyệt đối hóa.
- Để tập trung sự chú ý, có thể dùng cách nói lửng (ở những chỗ mà dường như độc giả có thể đoán được ý tiếp theo).
Tóm lại, sự bất thường luôn luôn được người nghe chú ý tới. Tạo ra tình huống bình thường nhưng nêu ra cách giải quyết bất thường cũng là cách thu phục nhân tâm tốt nhất.
Quy tắc 9: Nắm vững tâm lý của người khác
Bạn phải chú ý đến đặc điểm tâm lý của từng đối tượng. Thanh niên, học sinh, sinh viên đầy mơ mộng, sách vở nhưng cũng rất thực tế, năng động ham hiểu biết, muốn tự khẳng định mình, không thích trịnh trọng, dài dòng. Vì vậy, bài nói chuyện cần dí dỏm, súc tích, đi sâu được vào đời sống của học (ở ký túc xá, ở lớp học...).
Quy tắc 10: Hướng người nghe tới hành động thực tế
- Mục đích cao nhất trong cuộc sống con người không phải là sự hiểu biết mà là sự hành động.
- Muốn vậy phải làm cho người nghe hiểu bạn và tin bạn.
+ Trước hết cần hướng người nghe tới cái Thật, cái Tốt, cái Đẹp; căm ghét cái Giả, cái Xấu, cái Ác.
+ Đừng để cho người nghe phải mất thì giờ vì những lý thuyết viễn vông, xa thực tế.
+ Bản thân mình phải thực sự tin bào những điều mình sắp nói cho người khác. Lòng thành thật là khởi điểm của niềm tin.
+ Tự đặt mình vào vị trí của người nghe, họ sẽ có thiện cảm hơn với bạn.
+ Khiêm tốn vẫn là đức tính quan trọng nhất, từ đó có thể thu phục người nghe.
- Là học sinh, sinh viên ai cũng ước mơ, khao khát phấn đấu để học tập và rèn luyện tốt, ham học hỏi những điều mới lạ và quan tâm tới tương lai sau này. Trong bài nói chuyện của mình, bạn nên chỉ cho người ta thấy nếu hành động đúng thì sẽ có được các lợi ích đó.
Quy tắc 11: Phải làm cho vốn từ của bạn thật phong phú, cần thuộc nhiều danh ngôn và thành ngữ, tục ngữ, đến mức khi cần ta có thể huy động được ngay, lời lẽ trong sáng
- Sưu tầm các từ đồng nghĩa, phản nghĩa.
- Sưu tầm các danh ngôn cho từng lĩnh vực.
- Chọn lọc các thành ngữ, tục ngữ ngắn gọc (không thầy đố mày làm nên, học thầy không tày học bạn, đi một ngày đàng học một sàng khôn...).
- Học ở các diễn giả có tài, các nhà hùng biện nổi tiếng.
- Hết sức tránh các lỗi thông thường: nói ngọng, nói lắp, nói những câu vô nghĩa, không hiểu rõ nghĩa của từ cũng dùng, thêm không đúng chỗ, hành văn theo tư duy ngôn ngữ nước ngoài, thêm những trợ từ vào đầu mỗi câu (tức là, nói chung, ví dụ chẳng hạn như là...).
Quy tắc 12: Những việc cần làm khi bước lên diễn đàn
- Mỉm cười, bước khoan thai, đầu hơi ngửng lên, ngực hướng về phía trước.
- Nếu có hồi hộp thì thở mạnh, đưa mắt tìm người quen trong phòng.
- Tránh nói đều đều, cần lúc mạnh, lúc nhẹ, lúc nhanh, lúc chậm. Nghỉ một chút, trước và sau các ý quan trọng.
- Phải nhìn thẳng vào người nghe để nói với học, tránh nhìn xuống nền, nhìn lên trần nhà hoặc nhìn ra ngoài cửa...
- Khi thấy có người buồn ngủ, bạn phải nói to hơn, hăng hái hơn và nên xen vào một vài chuyện vui.
- Điệu bộ phải tự nhiên, không nên bắt chước ai. Vấn đề điệu bộ thế nào là tuỳ thuộc vào cảm xúc của bạn (vui, buồn, giận...).
- Bỏ những tật xấu: mâm mê cúc áo, đưa tay gãi đầu, xỏ tay vào túi quần, sửa kính.
- Đừng tỏ ra rụt rè, có thể vung tay hợp lý, có thể ngồi nếu thấy mỏi...
Tâm đắc với đề tài đã lựa chọn, tôn trọng người nghe và nêu đúng tâm lý trẻ trung ham hiểu biết, nhạy cảm... của các bạn học sinh, sinh viên, đó là tiền đề của thành công.
Tựu trung, người cán bộ Đoàn trường học cần luôn luôn ghi nhớ nguyên tắc:
- Nói (viết) để làm gì?
- Nói (viết) cho ai?
- Nói (viết) cái gì?
- Nói (viết) như thế nào?
- Ai nói (viết)?
Theo https://tinhdoan.quangbinh.gov.vn/
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn