Những ngày đáng nhớ trong tháng 5:
-------
- 01/5/1886: Ngày Quốc tế Lao động.
- 05/5/1902: Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu
- 07/5/1954: Ngày Chiến thắng Điện Biên Phủ.
- 09/5/1945: Ngày Chiến thắng chủ nghĩa Phát xít.
- 15/5/1941: Ngày thành lập Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh.
- 19/5/1890: Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- 19/5/1941: Ngày thành lập Mặt trận Việt Minh.
Lịch sử, ý nghĩa ngày Quốc tế Lao động 1/5
Ngay sau khi thành lập Quốc tế I năm 1864, Mác coi việc rút ngắn thời gian lao động là nhiệm vụ đấu tranh của giai cấp vô sản. Tại Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản I họp tại Gieneve (Thụy Sĩ) tháng 9/1866, vấn đề đấu tranh cho ngày làm việc 8 giờ được coi là nhiệm vụ quan trọng. Khẩu hiệu ngày làm 8 giờ sớm xuất hiện trong một số nơi của nước Anh, nước có nền công nghiệp phát triển sớm nhất. Yêu sách này dần lan sang các nước khác.
Do sự kiện giới công nhân viên chức Anh di cư sang Mỹ, phong trào đòi làm việc 8 giờ phát triển mạnh ở nước Mỹ từ năm 1827, đi đôi với nó là sự nảy nở và phát triển phong trào Công đoàn. Năm 1868, giới cầm quyền Mỹ buộc phải thông qua đạo luật ấn định ngày làm 8 giờ trong các cơ quan, xí nghiệp thuộc Chính phủ. Nhưng các xí nghiệp tư nhân vẫn giữ ngày làm việc từ 11 đến 12 giờ.
Năm 1884, tại thành phố công nghiệp lớn Chicago, Đại hội Liên đoàn Lao động Mỹ thông qua nghị quyết nêu rõ: “…Từ ngày 1/5/1886, ngày lao động của tất cả các công nhân sẽ là 8 giờ”. Sở dĩ ngày 1/5 được chọn bởi đây là ngày bắt đầu một năm kế toán tại hầu hết các nhà máy, xí nghiệp ở Mỹ. Vào ngày này, hợp đồng mới giữa thợ và chủ sẽ được ký. Giới chủ tư bản có thể biết trước quyết định của công nhân mà không kiếm cớ chối từ.
Ngày 1/5/1886, do yêu cầu của công nhân không được đáp ứng một cách đầy đủ, giới công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago. Khoảng 40 nghìn người không đến nhà máy. Họ tổ chức mit-tinh, biểu tình trên thành phố với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!” Cuộc đấu tranh lôi cuốn ngày càng đông người tham gia. Cũng ngày hôm đó, tại các trung tâm công nghiệp khác trên nước Mỹ đã nổ ra 5.000 cuộc bãi công với 340 nghìn công nhân tham gia. Ở Washington, New York, Baltimore, Boston… hơn 125.000 công nhân giành được quyền ngày chỉ làm 8 giờ.
Những cuộc biểu tình tại Chicago diễn ra ngày càng quyết liệt. Giới chủ đuổi những công nhân bãi công, thuê người làm ở các thành phố khác, thuê bọn khiêu khích và cảnh sát đàn áp, phá hoại cuộc đấu tranh của công nhân. Các xung đột xảy ra dữ dội khiến hàng trăm công nhân chết và bị thương, nhiều thủ lĩnh công đoàn bị bắt… Báo cáo của Liên đoàn Lao động Mỹ xác nhận: “Chưa bao giờ trong lịch sử nước Mỹ lại có một cuộc nổi dậy mạnh mẽ, toàn diện trong quần chúng công nghiệp đến như vậy”.
Ngày 20/6/1889, ba năm sau “thảm kịch” tại thành phố Chicago, Quốc tế cộng sản lần II nhóm họp tại Paris (Pháp). Dưới sự lãnh đạo của Frederic Engels, Đại hội lần thứ nhất của Quốc tế Cộng sản II đã quyết định lấy ngày 1/5 hàng năm làm ngày biểu dương lực lượng và đấu tranh chung của tầng lớp vô sản các nước.
Từ đó, ngày 1/5 trở thành Ngày Quốc tế Lao động, ngày đấu tranh của giai cấp công nhân, ngày nghỉ ngơi và biểu dương lực lượng, ngày hội của công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc tế thứ II, ngày 01/5/1890 lần đầu tiên, ngày Quốc tế Lao động được kỷ niệm với quy mô thế giới. Công nhân ở các nước Mỹ, Canada, Pháp, Đức, Áo, Đan Mạch, Bỉ, Thụy Điển, Hà Lan, Ý và nhiều nước khác tiến hành bãi công, mít tinh, xuống đường biểu tình mang theo biểu ngữ "Ngày làm 8 giờ", "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại".
Ngày Quốc tế Lao động 01/5 đã trở thành ngày lễ tại nhiều quốc gia trên thế giới, dành để tôn vinh lao động và gây dựng đoàn kết lao động trên thế giới; là ngày hội của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới, ngày đoàn kết giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Năm 1920, được sự phê chuẩn của Lê Nin, Liên Xô (cũ) là nước đầu tiên cho phép người dân được nghỉ làm vào ngày Quốc tế Lao động 1/5. Sáng kiến này dần dần được nhiều nước khác trên thế giới tán thành.
Tại Việt Nam, Tháng 02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Ngay trong Cương lĩnh đầu tiên, Đảng xác định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân (GCCN) Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng, nòng cốt trong khối liên minh công - nông. Phong trào đấu tranh ngày 01/5/1930 đã mở đầu cho cao trào cách mạng 1930 - 1931. Lần đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng và hướng dẫn, vận động của Công hội đỏ, công nhân cùng nông dân mít tinh biểu tình kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1/5, đấu tranh đòi quyền lợi, bày tỏ tình đoàn kết với CNLĐ thế giới.
Ngày 18/02/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 22c quy định ngày 01/5 là một trong những ngày lễ chính thức của nước ta. Ngày 29/4/1946, Hồ Chủ tịch ký Sắc lệnh số 56 quy định công nhân được hưởng lương ngày nghỉ lễ Quốc tế Lao động 01/5. Ngày 01/5/1946, lần đầu tiên trong lịch sử nước ta, ngày Quốc tế Lao động 01/5 được tổ chức kỷ niệm trọng thể tại Hà Nội, với sự tham dự của 20 vạn nhân dân lao động. Từ đó, ngày Quốc tế Lao động (01/5) hằng năm là một trong những ngày lễ lớn của đất nước, ngày hội của GCCN và nhân dân lao động Việt Nam.
Ngày 01/5/1951, trong lời kêu gọi nhân ngày Quốc tế Lao động, Bác Hồ xác định "Trọng tâm thi đua là: Quân đội thi đua giết giặc lập công. Công nhân thi đua tăng gia sản xuất. Nông dân thi đua sản xuất lương thực. Trí thức thi đua sáng tác, phát minh. Cán bộ thi đua cần, kiệm, liêm, chính. Toàn dân thi đua tích cực tham gia kháng chiến". Ngày 01/5/1958, Bác đưa ra "Lời kêu gọi nhân ngày Quốc tế Lao động" khẳng định: "Hôm nay, cùng với nhân dân lao động toàn thế giới, chúng ta nhiệt liệt chào mừng Ngày 1/5 trong lòng đầy tin tưởng và phấn khởi quyết tâm vượt mọi khó khăn, tiến lên làm tròn những nhiệm vụ mới...". Ngày 01/5/1964, nhân ngày Quốc tế Lao động, Bác gửi điện khen ngợi thanh niên trên công trường khôi phục đường sắt Thanh Hoá - Vinh, trong đó có việc xây lại Cầu Hàm Rồng.
Kể từ sau năm 1975, kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 01/5 ở Việt Nam ngày càng có ý nghĩa khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta kỷ niệm ngày Chiến thắng 30/4. Đây là dịp giai cấp công nhân và nhân dân lao động cả nước ôn lại truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm; sôi nổi hưởng ứng các phong trào thi đua yêu nước để bày tỏ lòng tưởng nhớ, biết ơn sâu sắc với Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta. Người đã có công lao rất to lớn giúp nhân dân ta ý thức được ý nghĩa lịch sử và tác động của việc kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 01/5, từ đó càng thêm quyết tâm đi theo con đường cách mạng do Đảng và Bác kính yêu đã lựa chọn, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
Theo https://ninhthuan.dcs.vn/
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Sắc, mẹ là Hoàng Thị Loan. Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung theo gia đình vào sống ở Huế. Đầu năm 1901, Người theo cha trở về Nghệ An, lấy tên là Nguyễn Tất Thành. Năm 1906, Người theo cha vào Huế, lúc đầu học trường Pháp-Việt, sau học trường Quốc học Huế. Tháng 6/1909, Người theo cha vào Bình Định; tháng 8/1910 vào Phan Thiết (Bình Thuận) làm giáo viên trường Dục Thanh. Tháng 02/1911, Người vào Sài Gòn.
* Tóm tắt quá trình hoạt động cách mạng
- Giai đoạn 1911-1920: Ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành lên tàu Amiran Latusơ Tơrêvin rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Pháp. Từ năm 1912 -1917, Người đi qua một số nước châu Phi, châu Mỹ. Đầu năm 1919, Người tham gia Đảng Xã hội Pháp, tháng 6/1919 thay mặt Hội những người yêu nước Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách gồm 08 điểm (ký tên Nguyễn Ái Quốc) tới Hội nghị các nước đế quốc họp ở Véc-xây (Pháp), đòi chính phủ các nước họp Hội nghị thừa nhận quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc đọc Luận cương của Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa. Tháng 12/1920, Người tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp. Tại đây, Người bỏ phiếu tán thành Quốc tế III và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam.
- Giai đoạn 1921-1930: Từ 1921 đến 6/1923, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa, dự Đại hội lần thứ I, II của Đảng Cộng sản Pháp, Chủ nhiệm kiêm chủ bút Báo Người cùng khổ (Le Paria)... Tháng 6/1923, Người rời nước Pháp đi Đức và đến Xanh-pê-téc-bua (Liên Xô). Từ 7/1923 đến 10/1924, Người hoạt động trong phong trào cộng sản quốc tế: Quốc tế Nông dân; dự Đại hội II Quốc tế Công hội đỏ, Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên; viết báo tuyên truyền cách mạng, hoàn thành tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp; dự Đại hội lần thứ V Quốc tế Cộng sản và là cán bộ Ban phương Đông Quốc tế Cộng sản. Tháng 11/1924, Người rời Liên Xô đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 6/1925, Người thành lập Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, mở các lớp huấn luyện cán bộ, ra Báo Thanh niên (21-6-1925) truyền bá chủ nghĩa Mác- Lênin về Việt Nam, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài giảng của Người tập hợp và in thành sách Đường Cách mệnh, xuất bản 1927. Tháng 7/1928, Người tới Xiêm (Thái Lan), rồi trở lại Trung Quốc. Từ 06/1 đến 07/2/1930 tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc), Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Giai đoạn 1930-1945: Tháng 6/1931, Người bị nhà cầm quyền Anh bắt giam ở Hồng Kông. Cuối 1932, Người được trả tự do, sau đó đến Liên Xô học tại trường Quốc tế Lênin. Tháng 10/1938, Người rời Liên Xô đến Diên An (Trung Quốc) làm việc tại Bộ chỉ huy Bát lộ quân, chuẩn bị về nước chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Ngày 28/01/1941, Người về nước tại cột mốc 108 thuộc xã Trường Hà, Hà Quảng, Cao Bằng. Từ ngày 10 đến 19/5/1941, Người chủ trì Hội nghị lần thứ VIII của Trung ương Đảng tại Khuổi Nặm (Pắc Bó, Cao Bằng). Hội nghị xác định đường lối đấu tranh giải phóng dân tộc, chỉ đạo thành lập Mặt trận Việt Minh, lập Báo Việt Nam Độc lập, tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa. Tháng 8/1942, lấy tên là Hồ Chí Minh, Người đại diện cho Mặt trận Việt Minh sang Trung Quốc liên lạc với Đồng minh. Người bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng Tây. Trong lúc bị giam giữ, Người viết Nhật ký trong tù. Tháng 9/1944, Hồ Chí Minh trở về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Tháng 5/1945, Người từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang). Tại đây theo đề nghị của Người, Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân họp quyết định Tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Tháng 8/1945, Người cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi. Ngày 02/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
- Giai đoạn 1945-1954: Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, đối phó với thù trong, giặc ngoài, tổ chức Tổng tuyển cử trong cả nước, bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên của Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân Pháp, đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 đưa miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Giai đoạn 1954-1969: Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra đường lối đúng đắn, lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và công cuộc cải tạo, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc thắng lợi; đặt nền móng và vun đắp tình hữu nghị giữa dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên thế giới, giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với Đảng Cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Ngày 02/9/1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời là tổn thất vô cùng lớn lao. Sự ra đi của Bác để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn dân tộc ta và tình đoàn kết thân ái với nhân dân tiến bộ thế giới.
* Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
- Tuyệt đối trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ cùng với sự bùng nổ của internet, mạng xã hội toàn cầu và các vấn đề nảy sinh từ mặt trái của kinh tế thị trường; các thế lực thù địch, phản động với các chiêu thức, thủ đoạn mới chống phá Đảng, Nhà nước. Bên cạnh kết quả đạt được, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cũng còn những hạn chế, bất cập. Vì vậy, đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh
Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng ta trưởng thành trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, ngày càng nâng cao vai trò, vị thế cầm quyền và năng lực lãnh đạo, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm năng sáng tạo, phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, quản lý xã hội. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, XII và Đại hội XIII của Đảng về xây dựng Đảng khẳng định, tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực, kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái, củng cố sự kiên định về mục tiêu, lý tưởng cách mạng; củng cố tổ chức chặt chẽ; tăng cường mối liên hệ mật thiết với nhân dân; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đây là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta.
- Phát huy ý chí, khát vọng, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, phát triển nhanh và bền vững đất nước
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững, cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp cần phải quan tâm, chăm lo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tăng cường giáo dục, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, khát vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thu hút trọng dụng nhân tài; đổi mới sáng tạo, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ;; quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; tăng cường quốc phòng, an ninh bảo đảm vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Thực hiện Kết luận 01-KL/TW, của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025.
Cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp đẩy mạnh thực hiện Kết luận 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nâng cao nhận thức cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân về ý nghĩa, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước; kịp thời lựa chọn, phát hiện, bồi dưỡng các mô hình điểm, cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả, thiết thực trong các phong trào thi đua ở địa bàn cơ sở; các gương người tốt, việc, tốt, nhân tố mới trong các phong trào thi đua yêu nước để tuyên truyền động viên, cổ vũ và nhân rộng, tạo sự lan tỏa trong cộng đồng... Qua đó, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và nghị quyết Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2020-2025.
Nguồn: https://tuyengiaotiengiang.vn/
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thời đại Hồ Chí Minh
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử... Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ bản hùng ca thời đại Hồ Chí Minh.
Ðã 69 năm trôi qua nhưng âm hưởng, ý nghĩa và bài học lịch sử của Chiến thắng ấy vẫn luôn vang vọng và là động lực để tiếp thêm sức mạnh cho toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, tiếp tục đưa đất nước phát triển đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Đất nước ta trong những ngày đầu độc lập gặp muôn vàn khó khăn, thử thách trong bối cảnh “thù trong, giặc ngoài” - thực dân Pháp dã tâm quay trở lại xâm lược đất nước ta một lần nữa; vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, tập trung diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (tháng 12 năm 1946), dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã nêu cao tinh thần độc lập, tự do, quyết chiến, quyết thắng, “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”, nhất tề đứng lên thực hiện đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính; đồng thời, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, từng bước đánh bại các chiến lược quân sự của bè lũ thực dân, giành được những thắng lợi quan trọng, nổi bật là trên các mặt trận Việt Bắc 1947, Chiến dịch Biên giới Thu - Đông 1950.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá sâu sắc tình hình thế giới và trong nước, Trung ương Đảng đề ra Kế hoạch chiến lược Đông - Xuân 1953-1954, quyết tâm giữ vững thế chủ động, đánh địch cả chính diện và sau lưng, với phương châm tác chiến “tích cực, chủ động, cơ động, linh hoạt”, “đánh chắc thắng” để đánh bại Kế hoạch Na-va của địch. Với tinh thần cả nước ra trận, quân và dân ta đã liên tục tiến công, giáng cho địch nhiều thất bại nặng nề, buộc chúng rơi vào thế bị động đối phó trên khắp các chiến trường. Trước nguy cơ kế hoạch Na-va bị phá sản, thực dân Pháp gấp rút điều động lực lượng nhảy dù, chiếm Điện Biên Phủ, tăng cường lực lượng, xây dựng nơi đây thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương - “một pháo đài không thể công phá”, nhằm tạo bàn đạp chiến lược khống chế khu vực Tây Bắc, Thượng Lào và thu hút, “nghiền nát” chủ lực của ta.
Nắm chắc tình hình, âm mưu, thủ đoạn của địch, đầu tháng 12 năm 1953, Bộ Chính trị đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ, “tập trung đại bộ phận lực lượng chủ lực thiện chiến của ta lên mặt trận Điện Biên Phủ, mở chiến dịch tiến công tiêu diệt những lực lượng tinh nhuệ nhất của địch trong tập đoàn cứ điểm mạnh nhất của chúng trên chiến trường Đông Dương”(1). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo, đây là chiến dịch có ý nghĩa quân sự, chính trị, ngoại giao rất quan trọng; phải đánh thắng; chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo, quyết tâm chiến lược đó, quân và dân ta đã khẩn trương chuẩn bị tốt mọi mặt và bước vào trận quyết chiến chiến lược bằng khát vọng độc lập dân tộc cháy bỏng cùng ý chí quyết chiến, quyết thắng cao độ.
Trước thực tiễn chiến trường và quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch, đứng đầu là Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển phương châm tác chiến từ “Đánh nhanh, giải quyết nhanh” sang “Đánh chắc, tiến chắc” ngay trước giờ mở màn Chiến dịch. Đây là một quyết định sáng suốt, thể hiện tài thao lược quân sự, phù hợp với thực tế diễn biến chiến dịch và chính là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến thắng lợi cuối cùng. Trải qua “năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt; máu trộn bùn non; gan không núng; chí không mòn”(2), ngày 07 tháng 5 năm 1954, lá cờ “Quyết chiến Quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao cho Quân đội nhân dân Việt Nam đã hiên ngang tung bay trên nóc hầm Đờ Ca-xtơ-ri, quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Đây là một trong những đỉnh cao chói lọi, kỳ tích vẻ vang trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, xứng đáng được ghi vào lịch sử dân tộc như một Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, của ý chí tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam; thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc, dân chủ nhân dân trên thế giới và của lương tri thời đại. Chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam; đồng thời là một sự kiện quan trọng báo hiệu sự sụp đổ hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mà đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ là chiến thắng của chủ nghĩa yêu nước, ý chí bất khuất, kiên cường của dân tộc Việt Nam được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử; chiến thắng của đường lối chiến tranh nhân dân đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta, của ý chí quyết chiến, quyết thắng, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng”; của sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; đồng thời, là chiến thắng của tình đoàn kết chiến đấu thủy chung, son sắt của quân, dân ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế.
Chiến thắng Điện Biên Phủ vừa mang ý nghĩa lịch sử to lớn, vừa mang tầm thời đại sâu sắc, làm sáng ngời chân lý: Một nước nhỏ, kinh tế chậm phát triển, nếu có một Đảng Mác-xít chân chính lãnh đạo, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, phát huy được sức mạnh toàn dân tộc, được nhân dân thế giới đồng tình ủng hộ, thì nhất định đánh bại mọi cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù, dù kẻ thù đó mạnh hơn nhiều lần. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định tại Lễ kỷ niệm 10 năm chiến thắng “chấn động địa cầu” ngày 07/5/1964, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào Sổ cảm tưởng của Bảo tàng Điện Biên Phủ: “Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Chiến thắng Điện Biên Phủ càng làm sáng ngời chân lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngày nay: Chiến tranh xâm lược của bọn đế quốc nhất định bị thất bại, cách mạng giải phóng của các dân tộc nhất định thành công”. Còn trong bài “Nhân ngày kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ” (ký bút danh Chiến Sĩ) đăng trên Báo Nhân dân, Bác viết: “Điện Biên Phủ như là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử. Nó ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn…Với tinh thần quyết chiến quyết thắng của Điện Biên Phủ, từ nay về sau nhân dân miền Nam chắc sẽ thắng lợi hơn nữa. Muốn tránh một thất bại như ở Điện Biên Phủ và muốn khỏi mất thể diện, thì đế quốc Mỹ chỉ có một cách là chấm dứt ngay cuộc chiến tranh xâm lược, rút ngay quân đội Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, để nhân dân miền Nam tự giải quyết lấy vấn đề nội bộ của mình”. Chiến thắng Điện Biên Phủ là mốc son chói lọi, là niềm tự hào dân tộc. Tinh thần của Chiến thắng vĩ đại này đã được quân và dân ta tiếp nối, phát huy cao độ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lập lên những chiến công hiển hách, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước và làm nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong sự nghiệp đổi mới, hội nhập, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thắng lợi của chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ cũng là thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp là do các nhân tố cơ bản:
Một là, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối kháng chiến, đường lối quân sự độc lập, đúng đắn, sáng tạo. Kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ chiến lược chống đế quốc và phong kiến, vừa kiến quốc xây dựng chế độ mới. Ngay từ đầu chống thực dân Pháp xâm lược, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, dựa vào sức mình là chính. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, kết hợp chặt chẽ chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy; tiến công quân sự, địch vận và nổi dậy của quần chúng; đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, kinh tế, văn hóa, ngoại giao.
Hai là, nhân dân ta rất anh hùng, từ nông thôn đến thành thị, từ miền núi đến miền xuôi, từ trẻ đến già nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ đã phát huy tinh thần cao độ tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng ra sức thi đua xây dựng hậu phương vững chắc, thi đua giết giặc lập công, đóng góp sức người, sức của bảo đảm đầy đủ mọi điều kiện cho chiến trường, tiếp thêm ý chí quyết chiến, quyết thắng cho các lực lượng vũ trang ngoài mặt trận.
Ba là, các lực lượng vũ trang nhân dân ta trưởng thành vượt bậc về tư tưởng chính trị, lực lượng, tổ chức chỉ huy, trình độ tác chiến, trang thiết bị quân sự và bảo đảm hậu cần cho chiến dịch quân sự quy mô lớn chưa từng có. Chấp hành nghiêm mệnh lệnh chiến trường, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, mưu trí, sáng tạo, dũng cảm hy sinh lập nhiều chiến công trên khắp chiến trường Đông Dương, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ ở chiến trường Điện Biên Phủ.
Bốn là, sự chi viện, cổ vũ và ủng hộ của các nước xã hội chủ nghĩa, nhất là của Trung Quốc, Liên Xô, phong trào đấu tranh vì hòa bình của nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, trong đó có cả nhân dân Pháp, đặc biệt là của các nước trên bán đảo Đông Dương cùng chung chiến hào, đã tạo nên sức mạnh thời đại của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Trong bối cảnh hiện nay, xu thế chủ đạo của thế giới là hòa bình, hợp tác và phát triển nhưng vẫn còn tiềm ẩn những nguy cơ bất ổn, diễn biến phức tạp; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt, chủ nghĩa dân tộc, dân túy, bảo hộ và các thách thức an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh… gia tăng. Khoa học công nghệ phát triển nhanh và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư mở ra nhiều cơ hội nhưng cũng xuất hiện những thách thức mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Ðảng khởi xướng và lãnh đạo, thế và lực của đất nước ta không ngừng được nâng lên; uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Tuy nhiên, sức chống chịu và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế; năng suất, chất lượng, hiệu quả chưa cao; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và tụt hậu vẫn còn hiện hữu. Phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại mặc dù đã đạt được những thành tựu quan trọng nhưng nhiệm vụ đặt ra còn rất nặng nề.
Kế thừa và phát huy truyền thống vẻ vang trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của dân tộc; ý chí quyết chiến, quyết thắng và khát vọng hòa bình của nhân dân ta, thể hiện sâu sắc, đậm nét trong các cuộc kháng chiến mà đỉnh cao là Chiến dịch Ðiện Biên Phủ, toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh theo Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng , tạo nền tảng vững chắc để đất nước phát triển nhanh, bền vững hơn trong những năm tiếp theo.
Lịch sử đã chứng minh, sự đoàn kết và kỷ luật là cội nguồn sức mạnh của Ðảng và là hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bởi vậy, chúng ta cần đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức Ðảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Ðồng thời, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, từng tổ chức đảng và từng đảng viên phải chủ động ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, xây dựng Ðảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Qua đó, tập hợp lực lượng, tạo xung lực chính trị và tinh thần, phát huy trí tuệ, sức mạnh của toàn dân để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Phát huy tinh thần quyết chiến, quyết thắng của Chiến dịch Ðiện Biên Phủ, chúng ta phải có ý chí, niềm tin, khát vọng vươn lên, xây dựng đất nước Việt Nam thịnh vượng. Trước yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta cần tiếp tục quán triệt sâu sắc, nắm vững đường lối chính trị, quân sự của Ðảng và tư tưởng Hồ Chí Minh, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh toàn diện, trước hết là vững mạnh về chính trị, có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao, có cơ cấu, thành phần hợp lý, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của từng lực lượng, bảo đảm thực sự là lực lượng chính trị tin cậy, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Ðảng, Nhà nước và Nhân dân. Đặc biệt, để xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh vững mạnh, Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu nâng cao chất lượng tổng hợp của lực lượng vũ trang, trong đó xác định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(3). Đây là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời gian trước mắt và lâu dài, đáp ứng đòi hỏi khách quan về tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Kỷ niệm 68 năm Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ trong bối cảnh toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ra sức thi đua thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đồng thời đang thực hiện “mục tiêu kép”: Vừa chống đại dịch COVID-19 thành công, vừa phát triển kinh tế - xã hội. Phát huy tinh thần Điện Biên Phủ, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, chúng ta nguyện chung sức, đồng lòng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện mục tiêu cao cả của Đảng xây dựng một nước Việt Nam ngày càng phồn vinh, cường thịnh.
Phát huy hào khí của chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ, chúng ta quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng để thực hiện khát vọng đến năm 2045 trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa./.
Theo https://dangcongsan.vn/
78 năm Ngày Chiến thắng phát xít: Thiên anh hùng ca chói lọi trong lịch sử nhân loại
78 năm đã trôi qua kể từ thời khắc lịch sử 0 giờ 43 phút ngày 9/5/1945 (theo giờ Moskva), khi đại diện nước Đức quốc xã ký thỏa thuận đầu hàng vô điều kiện Liên Xô và các nước đồng minh.
Thời khắc ấy mãi mãi đi vào lịch sử nhân loại, trở thành Ngày Chiến thắng chung của tất cả các dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới, ngày đánh bại chủ nghĩa phát xít, chấm dứt Chiến tranh Thế giới thứ II.
Đó đồng thời cũng là Ngày Chiến thắng vinh quang của quân và dân Liên Xô trong cuộc Chiến tranh Vệ quốc vĩ đại (1941-1945).
Đây là dịp để nhân loại tự hào về chiến thắng, nhớ tới những người đã ngã xuống trong cuộc chiến tranh tàn khốc nhất trong lịch sử loài người, tri ân những người đã mang lại nền hòa bình cho thế giới, đồng thời nhắc nhở nhân loại về tội ác của chủ nghĩa phát xít, kêu gọi cảnh giác, loại trừ nguồn gốc làm nảy sinh và dung dưỡng sự phát triển của tư tưởng phát xít trong thế giới hiện nay.
Chiến tranh Thế giới thứ II và cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết
Nhân loại sẽ còn nhắc tới Chiến tranh Thế giới thứ II như một cuộc chiến tàn khốc nhất, đẫm máu nhất, đau thương nhất với quy mô rộng lớn nhất. Chiến tranh thế giới lần thứ II (1939-1945) là cuộc chiến tranh lớn nhất trong toàn bộ lịch sử nhân loại do liên minh phát xít Đức, Ý và quân phiệt Nhật Bản phát động nhằm xâm lược, chiếm đóng lãnh thổ các nước, phân chia lại thị trường tiêu thụ sản phẩm và đầu tư cũng như khai thác tài nguyên thiên nhiên của các nước bị xâm chiến.
Để tiến hành cuộc chiến tranh này, năm 1936 các nước Đức, Ý, Nhật Bản quyết định thành lập liên minh, trước hết là liên minh Đức-Ý, sau có thêm Nhật Bản, theo Hiệp ước Berlin được ký kết vào năm 1940. Để phát động chiến tranh, từ năm 1938, phát xít Đức đưa quân đi xâm lược và đánh chiếm các nước Áo (1938), Tiệp Khắc (với sự thỏa hiệp của Anh, Pháp, theo Hiệp định nghị Munich ký năm 1938). Phát xít Ý đưa quân xâm lược Ethiopia (1936), Albania (1939), còn quân phiệt Nhật Bản xâm chiếm Trung Quốc (năm 1937).
Ngày 1/9/1939, phát xít Đức tiến công xâm lược Ba Lan, chính thức mở đầu Chiến tranh Thế giới lần thứ II. Sau đó, năm 1940, quân Đức đánh chiếm hàng loạt nước châu Âu, gồm Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Bỉ, Pháp, Hungari, Rumani, Bungari. Năm 1941, quân Đức sử dụng không quân và hải quân đánh phá nước Anh. Còn phát xít Ý với sự hỗ trợ của quân Đức đã đánh chiếm Nam Tư, Hy Lạp (năm 1941). Trên chiến trường Bắc Phi, liên quân Đức-Ý đánh chiếm Libya và tiến sang Ai Cập.
Sau khi đánh chiếm 16 nước châu Âu, tháng 6/1941, phát xít Đức tập trung cụm lực lượng lớn nhất trên chiến trường châu Âu trong Chiến tranh thế giới lần thứ II tiến công Liên Xô bằng chiến dịch chiến tranh chớp nhoáng mang tên “Barbarossa”, mở đầu cuộc chiến tranh Xô-Đức (1941-1945). Thế nhưng phát xít Đức không ngờ đã gặp phải sự chống trả quyết liệt của quân và dân Liên Xô. Trong vòng 2 năm, từ 1941-1943, hàng chục sư đoàn và lữ đoàn phát xít Đức đã bị tiêu diệt.
Năm 1943, sau khi chuyển sang chiến lược phản công, Hồng quân Liên Xô đã giải phóng Tổ quốc, rồi lần lượt giải phóng Nam Tư, Albania, Ba Lan, Romania, Hungary và Tiệp Khắc.
Trong khi Hồng quân Liên Xô tấn công dồn dập quân Đức trên mặt trận phía Đông, quân đội Anh, Mỹ đã mở mặt trận Tây Âu. Với sự giúp đỡ to lớn của các lực lượng kháng chiến, nước Pháp rồi Bỉ, Hà Lan, Luxembourg và Ý lần lượt được giải phóng.
Và ngày 30/4/1945 đã ghi dấu mốc quan trọng khi lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô bay phấp phới trên tòa nhà quốc hội Đức. Đúng 0 giờ 43 phút ngày 9/5/1945 theo giờ Moskva, thay mặt nước Đức quốc xã, thống soái Wilhelm Keitel đã phải ký biên bản xác nhận sự đầu hàng vô điều kiện của phát xít Đức.
Sau khi đánh bại phát xít Đức, Liên Xô tiếp tục tuyên chiến với phát xít Nhật và đã đánh gục đội quân Quan Đông tinh nhuệ nhất của Nhật, buộc Nhật phải chấp nhận đầu hàng không điều kiện. Cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ II đã chính thức kết thúc.
Tổng kết cuộc Chiến tranh Thế giới lần thứ II, có thể thấy đây là cuộc chiến bao trùm trên hầu hết các châu lục, đại dương, liên quan đến hơn 70 nước với 1,7 tỉ người, trong đó có tới 110 triệu quân tham chiến. Nhưng Liên Xô vẫn là nước chịu thiệt hại lớn nhất về người và vật chất. Để đi đến Ngày Chiến thắng (9/5/1945), nhân dân Liên Xô đã phải hứng chịu những hy sinh, mất mát to lớn nhất, những tổn thất không thể bù đắp nổi. Chiến tranh đã cướp đi sinh mạng của khoảng 27 triệu người Liên Xô, trong đó gần 9 triệu chiến sỹ Hồng quân đã ngã xuống cho Ngày Chiến thắng. Vì vậy, ngày Chiến thắng luôn là ngày lễ thiêng liêng nhất, cao cả nhất đối với các thế hệ người dân Nga nói riêng và nhân loại nói chung.
Những bài học còn nguyên giá trị
Thắng lợi của cuộc chiến tranh chống chủ nghĩa phát xít cách đây 78 năm mãi mãi là một mốc son chói ngời trong lịch sử nhân loại. Thắng lợi này đã làm thay đổi cục diện, tạo tiền đề quan trọng đưa thế giới sang thời kỳ phát triển mới. Hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu được hình thành. Bão táp cách mạng và phong trào giải phóng dân tộc đã làm lung lay, từng bước sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, thực dân tại châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh… Nhân dân các nước thuộc địa đã vùng lên mạnh mẽ đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc thực dân, giành độc lập dân tộc, xây dựng đất nước theo con đường phù hợp với mình.
Sự kiện chiến thắng chủ nghĩa phát xít cũng mở ra một chương mới cho lịch sử chính trị thế giới, với sự ra đời của Liên hợp quốc cùng những nguyên tắc nền tảng trong quan hệ quốc tế, đó là những nguyên tắc tôn trọng quyền bình đẳng, quyền tự quyết của các quốc gia; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, không dùng vũ lực, tôn trọng luật pháp quốc tế…
Đồng thời, chiến thắng phát xít cũng đã tạo dòng thác cách mạng mạnh mẽ. Đó là dòng thác cách mạng xã hội chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng đấu tranh vì dân sinh, dân chủ. Cũng chính trong những ngày tháng lịch sử ấy, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã đoàn kết một lòng, tận dụng cơ hội chiến lược để tiến hành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2/9/1945, đưa dân tộc thoát khỏi ách nô lệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật.
78 năm đã qua đi kể từ khi kết thúc Chiến tranh thế giới lần thứ II và Chiến tranh giữ nước vĩ đại của nhân dân Xô Viết, nhưng những bài học về cuộc chiến chống phát xít thì vẫn còn nguyên vẹn ý nghĩa thiết thực đối với thế giới đương đại và sẽ luôn được mọi quốc gia, dân tộc trên thế giới bảo vệ và mãi trường tồn.
Bài học thứ nhất, về tổn thất thương vong lớn về con người luôn nhắc nhở nhân dân thế giới ngày nay cần phải trân trọng và giữ gìn nền hòa bình thế giới như thế nào để không tái diễn thảm họa phát xít dưới bất kỳ hình thức nào.
Bài học thứ hai, cần thấy rằng nhân dân Liên Xô trong cuộc chiến đấu chống phát xít đã tổn thất rất nặng nề và làm nên một sứ mệnh lịch sử, cứu loài người thoát khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít, và sau chiến thắng ấy, nhân dân Liên Xô trở thành thành trì của Chủ nghĩa xã hội, đặt ra một xu hướng phát triển của các dân tộc bị áp bức trên thế giới và dẫn đến sụp đổ từng phần của chủ nghĩa thực dân, đề quốc. Vì thế, những bài học về cuộc chiến tranh chống phát xít 75 năm trước vẫn có ý nghĩa thiết thực đối với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì mục tiêu hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Ngày nay, trong bối cảnh thời thế đã đổi thay, thế giới đã và đang bước vào thời đại toàn cầu hóa, lợi ích quốc gia và quốc tế được xây dựng trên nền tảng các mối quan hệ đa phương, đa dạng với mong muốn cùng tồn tại hoà bình và phát triển. Tuy nhiên, tư tưởng của chủ nghĩa đế quốc cùng với sản phẩm của nó là chủ nghĩa phát xít mới đang hình thành và biến tướng dưới nhiều hình thức khác nhau như: chạy đua vũ trang, xung đột dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, khủng bố…
Đồng thời, trong nhiều năm qua cũng đã xuất hiện những quan điểm đòi "viết lại lịch sử", bóp méo sự thật hòng hạ thấp giá trị, ý nghĩa của chiến thắng, đồng thời phủ nhận vai trò của Liên Xô (bao gồm cả nước Nga) trong việc đánh bại hoàn toàn chủ nghĩa phát xít; thậm chí là trào lưu phát xít mới hòng khôi phục những thây ma của chủ nghĩa phát xít.
Nhưng có một sự thật không thể chối cãi, đó là chiến thắng chủ nghĩa phát xít là chiến thắng của nhân dân và quân đội Xô Viết dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô, của các nước đồng minh và các lực lượng tiến bộ thế giới. Trong đó vai trò quyết định thuộc về những người Xô Viết anh hùng, mà nhờ đó đã cứu loài người thoát khỏi thảm hoạ phát xít, đem lại cuộc sống hoà bình cho nhiều dân tộc và tạo nên những chuyển biến mang tính bước ngoặt của tình hình thế giới - thời đại không dung thứ tội ác và chiến tranh.
Bởi vậy, những luận điểm xuyên tạc nói trên đã bị các nhà khoa học lịch sử và lãnh đạo cấp cao nhiều quốc gia phản đối. Trong Thông điệp Liên bang lần thứ 16, ngày 15/1/2020, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã khẳng định rằng Nga phải bảo vệ sự thật lịch sử về thắng lợi trong Cuộc chiến tranh Vệ quốc vĩ đại bởi theo ông nếu không bảo vệ sự thật lịch sử thì “chúng ta sẽ có thể lấy gì để kể cho những đứa trẻ của chúng ta khi những sự dối trá lan truyền trên toàn thế giới như một bệnh dịch".
Theo An Ngọc/TTXVN
GIỚI THIỆU MỘT SỐ NÉT CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC ĐỘI THIẾU NIÊN TIỀN PHONG HỒ CHÍ MINH
I. Những vấn đề chung về Đội TNTP Hồ Chí Minh
1. Sự ra đời của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh
Ngay từ ngày mới thành lập Đảng, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến lực lượng trẻ, đưa họ vào tổ chức cách mạng để kế tục sự nghiệp vẻ vang của Đảng.
Ngày 26/3/1931 tại Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết thành lập tổ chức Đoàn Thanh niên và giao cho Đoàn phụ trách thiếu nhi. Sau đó vào ngày 15/5/1941, tại thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng, Đội Nhi đồng cứu quốc (nay là Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh) đầu tiên ra đời và được coi là thành viên của Mặt trận Việt Minh. Đội đã hoạt động theo Điều lệ của Mặt trận Việt Minh với nội dung “Dự bị giúp đánh Tây, đánh Nhật để làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập”.
Ngày đầu tiên Đội thành lập có 5 đội viên đầu tiên là Nông Văn Dền mang bí danh là Kim Đồng, Nông Văn Thàn là Cao Sơn, Lý Văn Tịnh là Thanh Minh, Lý Thị Nì là Thanh Thủy và Lý Thị Xậu là Thủy Tiên. Kim Đồng được bầu làm đội trưởng.
Từ ngày ấy đến nay, theo sự nghiệp cách mạng của Đảng và do Đoàn phụ trách từng thời kỳ, Đội đã đổi tên cho phù hợp với yêu cầu của cách mạng. Lúc mới thành lập là Đội Nhi đồng cứu quốc, sau này gọi là Đội Thiếu nhi cứu quốc. Tháng 3/1951 được đổi tên là Đội Thiếu nhi Tháng Tám, đến tháng 11/1956 đổi tên là Đội Thiếu niên Tiền phong và từ 19/3/1960 các em nhi đồng được tổ chức vào Đội Nhi đồng Tháng Tám. Tới 30/1/1970 thể theo nguyện vọng của thiếu nhi cả nước, Ban Chấp hành Trung ương Đảng ra Nghị quyết trao cho Đội được mang tên Bác Hồ kính yêu. Từ đó đến nay, Đội được mang tên Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
2. Đội TNTP Hồ Chí Minh - Tổ chức của thiếu nhi Việt Nam
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phụ trách.
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là trường học giáo dục thiếu nhi Việt Nam trong và ngoài nhà trường, là đội dự bị của Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; lực lượng nòng cốt trong các phong trào thiếu nhi.
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được tổ chức và hoạt động trong nhà trường và ở địa bàn dân cư. Tổ chức Đội có Điều lệ và Nghi thức hoạt động độc lập; lấy 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng làm mục tiêu phấn đấu rèn luyện cho đội viên, giúp đỡ thiếu nhi trong học tập, hoạt động, vui chơi, thực hiện quyền và bổn phận theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh đoàn kết, hợp tác với các tổ chức, phong trào thiếu nhi ở khu vực và thế giới vì quyền lợi của trẻ em, vì hoà bình, hạnh phúc của các dân tộc.
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh thành lập ngày 15/5/1941. Thiếu nhi Việt Nam từ 9 đến 15 tuổi đáp ứng các điều kiện theo Điều lệ Đội đều được xem xét kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
Hiện nay, cả nước có 15 triệu đội viên, thiếu niên và nhi đồng; 30 nghìn phụ trách thiếu nhi. Đại diện cho tổ chức Đội là Hội đồng Đội các cấp do Ban Chấp hành cùng cấp lập ra giúp Đoàn trực tiếp phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh.
3. Mục tiêu của Đội TNTP Hồ Chí Minh
Điều lệ Đội TNTP Hồ Chí Minh đã xác định: “Đội TNTP Hồ Chí Minh lấy 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng làm mục tiêu phấn đấu rèn luyện cho đội viên, giúp đỡ thiếu nhi trong học tập, hoạt động, vui chơi, thực hiện quyền và bổn phận theo Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”.
Mục tiêu của hoạt động Đội luôn bám sát mục tiêu giáo dục và đào tạo con nguời mới xã hội chủ nghĩa của Đảng. Mục tiêu hoạt động của Đội thống nhất với mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông. Do đó tổ chức Đội cùng với nhà trường và các lực lượng giáo dục khác kết hợp với nhau để giáo dục thiếu nhi ở cả trường học, trên địa bàn dân cư, trong giờ học và ngoài giờ lên lớp. Mục tiêu của Đội vừa mang ý nghĩa giáo dục lí tưởng cách mạng, định hướng chính trị xã hội chủ nghĩa, vừa mang tính thực tiễn. Tính lí tưởng thể hiện ở khẩu hiệu của Đội: “Vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa! Vì lý tưởng Bác Hồ vĩ đại: Sẵn sàng!”.
Khẩu hiệu Đội thường xuyên nhắc nhở đội viên về lí tưởng, mục tiêu cao quý của Đảng và Bác Hồ: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đem lại no ấm và hạnh phúc cho nhân dân. Đội TNTP Hồ Chí Minh bằng hành động hàng ngày có trách nhiệm góp phần thực hiện lí tưởng của Đảng. Điều đặc biệt quan trọng là Đội TNTP Hồ Chí Minh có trách nhiệm góp phần giáo dục và đào tạo những thế hệ con người mới xã hội chủ nghĩa kế tiếp nhau xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn.
4. Nhiệm vụ của Đội TNTP Hồ Chí Minh
Nhiệm vụ thứ nhất là: Các tập thể Đội và đội viên đều phải phấn đấu, rèn luyện thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy thiếu niên, nhi đồng để trở thành con ngoan, trò giỏi, bạn tốt, công dân tốt, đoàn viên Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ này được cụ thể hoá bằng việc mỗi đội viên phải nghiêm chỉnh thực hiện Điều lệ và Nghi thức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, Chương trình rèn luyện đội viên.
Nhiệm vụ thứ hai là: Các tập thể Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh phải có trách nhiệm giúp đỡ đội viên phát triển mọi khả năng trong học tập, hoạt động, vui chơi... đây là nhiệm vụ thể hiện rõ tính quần chúng của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, đáp ứng các nhu cầu của đội viên trong quá trình phấn đấu, học tập của mình.
Nhiệm vụ thứ ba là: Các tập thể Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ chí Minh và đội viên phải thực hiện các quyền và bổn phận của trẻ em đã được nêu trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Quyền Trẻ em, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Khi các em thực hiện tốt các điều quy định trong Công ước và Luật nghĩa là các em đã từng bước trưởng thành trong quá trình phấn đấu của mình.
Nhiệm vụ thứ tư là: Các tập thể Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ chí Minh và đội viên phải thực hiện nhiệm vụ giúp đỡ nhi đồng thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy, xứng đáng là con ngoan, trò giỏi, bạn tốt và trở thành đội viên Đội TNTP Hồ Chí Minh. Đây chính là trách nhiệm của Đội và đội viên với tổ chức của mình trong việc tạo điều kiện để Đội phát triển về số lượng, chất lượng đồng thời cũng thể hiện tình cảm và trách nhiệm trong quá trình chăm lo xây dựng lượng hậu bị của Đội TNTP Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ thứ năm là: Các tập thể Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ chí Minh và đội viên phải thực hiện nhiệm vụ đoàn kết, hợp tác với các tổ chức, phong trào thiếu nhi khu vực và thế giới vì quyền lợi của trẻ em, vì hoà bình hạnh phúc của các dân tộc. Thực hiện nhiệm vụ này, chính là góp phần thực hiện đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong quan hệ quốc tế hiện nay.
5. Tính chất của Đội TNTP Hồ Chí Minh
5.1. Tính chất quần chúng
Tính chất quần chúng của Đội thể hiện trước hết ở chỗ: Đội TNTP Hồ Chí Minh là tổ chức của thiếu nhi Việt Nam, làm nòng cốt trong phong trào thiếu nhi. Đội được tổ chức và hoạt động trong nhà trường và ở địa bàn dân cư. Đây chính là tổ chức của bản thân các em, do các em làm chủ và tự quản. Đội tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc “tự nguyện”, và nguyên tắc “tự quản” dưới sự định hướng, hướng dẫn của phụ trách Đội.
Tính chất quần chúng của Đội còn được thể hiện trong việc kết nạp đội viên vào tổ chức Đội, đó là thiếu niên được kết nạp vào Đội TNTP Hồ Chí Minh, nếu có những điều kiện sau: Thừa nhận Điều lệ Đội TNTP Hồ Chí Minh; tự nguyện xin vào Đội TNTP Hồ Chí Minh và được quá nửa số đội viên trong chi đội đồng ý.
Tính quần chúng của Đội còn thể hiện rất rõ trong quan điểm của Đoàn: ở đâu có thiếu nhi thì ở đó có tổ chức Đội và hoạt động của Đội.
5.2. Tính chất cách mạng
Tính cách mạng của Đội thể hiện ở chính vị trí của Đội, vì Đội TNTP Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Đoàn TNCS Hồ Chí Minh phụ trách. Tính chất này còn thể hiện ở tôn chỉ, mục đích và khẩu hiệu của Đội TNTP Hồ Chí Minh và nhiệm vụ của đội viên.
Hiện nay, tính chất cách mạng của Đội thể hiện ở chỗ: các tập thể Đội tham gia nhiệm vụ chính trị xã hội của đất nước, vì mục tiêu của Đảng ta “Xây dựng Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Đồng thời đội viên thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy, phấn đấu trở thành con ngoan, trò giỏi, đội viên tốt, đoàn viên TNCS Hồ Chí Minh, công dân tốt. Vì vậy, mọi hoạt động của Đội đều phải định hướng theo tinh thần giáo dục cộng sản và hoạt động đó phải tuân thủ, thực hiện một cách thống nhất và nghiêm túc theo những nguyên tắc hoạt động Đội.
5.3. Tính chất giáo dục
Tính chất giáo dục của Đội thể hiện ở chỗ: các hoạt động của Đội đều là những quá trình có mục đích, có tổ chức và có sự hướng dẫn, định hướng của phụ trách Đội. Phương thức giáo dục đặc trưng của Đội TNTP Hồ Chí Minh là giáo dục thông qua các hoạt động Đội. Nội dung giáo dục toàn diện trên tất cả các mặt, như giáo dục đạo đức chính trị, tư tuởng, và lối sống; giáo dục ý thức tinh thần thái độ học tập; giáo dục lao động, kĩ thuật tổng hợp và hướng nghiệp; giáo dục thể chất, vệ sinh và bảo vệ môi trường; giáo dục thẩm mĩ, văn hoá nghệ thuật; giáo dục tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc.
6. Vai trò của Đội TNTP Hồ Chí Minh
6.1. Đối với thiếu nhi: Đội TNTP Hồ Chí Minh là trường học giáo dục cộng sản chủ nghĩa của thiếu nhi và là nơi các em được giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện phấn đấu và trưởng thành. Đội là người đại diện quyền lợi cho trẻ em nói chung và cho thiếu niên và nhi đồng nói riêng.
6.2. Đối với nhà trường: Đội là người hỗ trợ tích cực, là cầu nối giữa nhà trường và xã hội và là chỗ dựa đáng tin cậy của giáo viên nhà trường, được sự hỗ trợ tích cực nhà trường cùng nhà trường thực hiện nội dung và mục đích giáo dục. Đội tổ chức triển khai mọi chủ trương của nhà trường động viên cổ vũ tất cả học sinh tham gia.
6.3. Đối với xã hội: Đội là một lực lượng đông đảo của xã hội, một lực lượng cách mạng tham gia tuyên truyền, cổ động các chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước, tham gia xây dựng và quản lí xã hội với những việc làm vừa sức. Để thực hiện vai trò này, Đội không chỉ hoạt động trong trường học, ngoài giờ lên lớp, mà còn tăng cường hoạt động Đội trên địa bàn dân cư.
6.4. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam: Đội là lực lượng dự bị trực tiếp, là nguồn bổ sung chủ yếu về số lượng và chất lượng cho Đoàn Thanh niên. Về thực chất, toàn bộ công tác Đội giúp các em rèn luyện, phấn đấu để chuẩn bị cho các em đội viên đủ điều kiện gia nhập Đoàn khi đã trưởng thành. Đó cũng là nhiệm vụ xây dựng Đoàn bằng con đường ngắn nhất và tốt nhất: xây dựng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh bắt đầu từ xây dựng Đội TNTP Hồ Chí Minh.
6.5. Đối với Đoàn TNCS Hồ Chí Minh: Đội là lực lượng dự trữ chiến lược cho Đảng, là một trong những lực lượng tạo nên những mắt xích quan trọng trong hệ thống chính trị: Đội, Đoàn, Đảng. Đội cùng nhà trường thực hiện mục tiêu và nguyên lí giáo dục của Đảng. Để thực hiện tốt vai trò này, trong công tác xây dựng Đội và giáo dục thiếu nhi phải đảm bảo sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng.
II. Nguyên tắc, hệ thống tổ chức và hoạt động của Đội TNTP Hồ Chí Minh
1. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đội TNTP Hồ Chí Minh
Đội TNTP Hồ Chí Minh có hai nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của tổ chức mình, đó là nguyên tắc tự nguyện và nguyên tắc tự quản có sự phụ trách của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh.
1.1. Nguyên tắc tự nguyện:
Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ của tổ chức Đội để đáp ứng nhu cầu của thiếu nhi trước khi vào Đội và của đội viên cùng với các tập thể Đội trong việc tự nguyện tham gia tích cực vào các hoạt động của Đội. Từ đó sẽ tạo cho đội viên có trách nhiệm xây dựng tổ chức Đội, xây dựng tập thể, đồng thời đòi hỏi Đội phải mở rộng các hình thức hoạt động cho phù hợp với nguyện vọng của đội viên và thiếu nhi.
1.2. Nguyên tắc tự quản dưới sự hướng dẫn của phụ trách Đội:
Nguyên tắc này thể hiện sự hoạt động của các đội viên dưới sự hướng dẫn của phụ trách Đội, nghĩa là khẳng định tổ chức Đội gồm đội viên và phụ trách Đội. Nguyên tắc tự quản dưới sự hướng dẫn, phụ trách của Đoàn được biểu hiện chủ yếu thông qua các hoạt động Đội. Đây là đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức Đội với tư cách là một lực lượng giáo dục.
Sự phụ trách của Đoàn TNCS được thể hiện ở các mặt sau:
- Đề ra phương hướng, nhiệm vụ của tổ chức Đội trong từng thời kì.
- Quyết định việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ, Nghi thức Đội cho phù hợp với đường lối, quan điểm của Đảng, của Đoàn qua các nhiệm kì Đại hội.
- Củng cố, kiện toàn Hội đồng Đội các cấp để giúp đoàn phụ trách Đội.
- Cử cán bộ, đoàn viên có nhiệt tình, có năng lực phụ trách hướng dẫn hoạt động của các tổ chức Đội và cơ sở.
- Cung cấp kinh phí và các phương tiện hoạt động cho Đội
- Phối hợp với các lực lượng xã hội chăm lo cho hoạt động Đội, phong trào thiếu nhi và bảo vệ các quyền lợi của đội viên, thiếu nhi theo các luật quy định.
Sự tự quản của Đội thể hiện:
- Mọi công việc của Đội do tập thể và các đội viên bàn bạc quyết định.
- Các quyết định của Đội đều được thực hiện khi quá nửa số đội viên đồng ý. Nguyên tắc tự quản của Đội là thể hiện khả năng làm chủ của đội viên. Đây là một nguyên tắc cơ bản để xây dựng Đội vững mạnh.
2. Hệ thống tổ chức của Đội TNTP Hồ Chí Minh
Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh là tổ chức thống nhất trong cả nước. Cấp cơ sở của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được thành lập ở các trường học, ở địa bàn dân cư bao gồm: Chi đội và liên đội (Trong các chi đội có các phân đội). Trên cấp liên đội là Hội đồng Đội do Ban Chấp hành Đoàn cùng cấp lập ra để giúp Đoàn phụ trách Đội. Hội đồng Đội các cấp vừa có tính chất đại diện cho tổ chức Đội, vừa có tính chất là người phụ trách Đội.
Hệ thống tổ chức của Hội đồng Đội gồm 4 cấp: Cấp xã, Cấp huyện, Cấp tỉnh, Cấp Trung ương. Đoàn khối, Đoàn ngành cần phân công cán bộ phụ trách công tác thiếu nhi. Hội đồng Đội các cấp hoạt động theo Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội đồng Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh do Ban Thường vụ Trung ương Đoàn ban hành.
Đội viên không chỉ được sinh hoạt ở một chi đội mà còn được sinh hoạt ở các chi đội, liên đội tạm thời ở các Nhà thiếu nhi, trường Đội, các hoạt động tập thể của Đội từ địa phương đến Trung ương. Khi sinh hoạt ở các chi đội, liên đội tạm thời, các em đều thực hiện theo Điều lệ và Nghi thức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
2.1. Cấp cơ sở của Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh bao gồm:
- Liên đội: Liên đội là cấp cao nhất của tổ chức Đội ở cơ sở. Mỗi liên đội có từ 3 chi đội trở lên. Liên đội được thành lập trong trường học, trên địa bàn dân cư và thành lập các liên đội, chi đội tạm thời để tổ chức các hoạt động theo Điều lệ và Nghi thức Đội ở các trường Đội, Nhà thiếu nhi và các hoạt động tập thể của Đội. Cấp liên đội mỗi năm đại hội 1 lần vào đầu năm học (với các chi đội, liên đội trong nhà trường) và đầu kỳ nghỉ hè (với các chi đội, liên đội ở địa bàn dân cư). Ban chỉ huy liên đội do đại hội bầu ra. Mỗi liên đội có 1 giáo viên tổng phụ trách là người thay mặt cho Đoàn Thanh niên trực tiếp phụ trách Đội.
- Chi đội: Chi đội là cấp cơ sở của Đội, mỗi chi đội có ít nhất từ 3 đội viên trở lên, chi đội có 9 đội viên trở lên có thể chia thành các phân đội. Chi đội được thành lập cả trong trường học, trên địa bàn dân cư và các chi đội tạm thời ở các trường Đội, nhà thiếu nhi và các hoạt động tập thể của Đội. Chi đội mỗi năm đại hội một lần, ban chỉ huy chi đội do đại hội bầu ra. Mỗi chi đội có một đoàn viên, cán bộ Đoàn được tổ chức Đoàn phân công trực tiếp phụ trách, hướng dẫn công tác Đội cho chi đội gọi là phụ trách chi đội.
2.2. Sao Nhi đồng trong các trường Tiểu học
Nhi đồng bao gồm các em từ 6 đến 8 tuổi do chưa có ý thức đầy đủ và chưa đủ năng lực để tự quản lý một tổ chức cho nên cần tập hợp để tiến hành các hoạt động thường xuyên phù hợp với nhi đồng là Sao nhi đồng. Nhi đồng là lực lượng dự bị của Đội. Bởi vậy tổ chức Đội và đội viên có nhiệm vụ dìu dắt nhi đồng, giúp đỡ các em sinh hoạt Sao cho đến tuổi thiếu niên (9 tuổi) và có đủ điều kiện để kết nạp vào Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, đây là trách nhiệm và vinh dự của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, là nhiệm vụ quan trọng mà Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh được Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh tin cậy giao phó.
Mỗi liên đội, chi đội có trách nhiệm tổ chức, hướng dẫn hoạt động của nhi đồng theo Sao nhi đồng thuộc phạm vi trường mình, nơi ở của mình hoặc ở một trường kết nghĩa. Sao nhi đồng do Liên đội thành lập.
Mỗi Sao nhi đồng có ít nhất 5 em và cử ra một em làm trưởng Sao. Mỗi Sao có ít nhất một đội viên do chi đội cử ra làm phụ trách Sao. Hàng tuần phụ trách Sao hướng dẫn Sao cùng sinh hoạt, vui chơi tập thể ít nhất một lần. Hàng tháng hoặc vào những ngày lễ, các Sao trong cùng một lớp hoặc cùng một nơi ở cần được vui chơi, sinh hoạt chung do anh, chị phụ trách hoặc thầy, cô giáo trực tiếp hướng dẫn.
3. Hội đồng Đội các cấp
Hội đồng Đội TNTP Hồ Chí Minh (gọi tắt là Hội đồng Đội) là đại diện cho tổ chức Đội, do Ban Chấp hành Đoàn cùng cấp lập ra, giúp Đoàn phụ trách Đội TNTP Hồ Chí Minh. Hệ thống tổ chức của Hội đồng Đội gồm 4 cấp: cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh, cấp Trung ương.
Hội đồng Đội có những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Giúp Ban Chấp hành Đoàn phụ trách công tác tổ chức và hoạt động Đội, phát triển phong trào thiếu nhi theo đường lối cuả Đảng.
- Nghiên cứu tham mưu với Ban Chấp hành Đoàn những chủ trương, nhiệm vụ giải pháp công tác Đội và phong trào thiếu nhi trong từng thời kì.
- Xây dựng kế hoạch, biện pháp tổ chức thực hiện các chủ trương, Nghị quyết của Ban Chấp hành Đoàn các cấp về công tác Đội và phong trào thiếu nhi.
- Tổ chức, hướng dẫn nghiệp vụ cho các Hội đồng Đội cấp dưới.
- Tổng kết, phổ biến, áp dụng những kinh nghiệm tiên tiến, những điển hình về công tác Đội và phong trào thiếu nhi.
- Thay mặt Ban Chấp hành Đoàn và tổ chức Đội phối hợp với các ngành các cấp chăm lo giáo dục thiếu nhi, chăm lo xây dựng cơ sở vật chất cho các hoạt động Đội.
- Chỉ đạo các trung tâm hoạt động của thiếu nhi, như: Cung thiếu nhi, Nhà thiếu nhi, điểm vui chơi, câu lạc bộ, các cơ quan xuất bản, báo chí tuyên truyền của Đoàn phục vụ thiếu nhi.
III. Các phong trào, các cuộc vận động và các hoạt động lớn của Đội TNTP Hồ Chí Minh
1. Các phong trào lớn của Đội:
1.1. Công tác Trần Quốc Toản
- Phong trào này do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng. Tháng 2/1948, xuất phát từ thực tế của cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ đã viết thư cho thiếu nhi nhằm tổ chức ra Đội Trần Quốc Toản.
- Phong trào Trần Quốc Toản đã phát huy truyền thống “Tương thân tương ái”, “Uống nớc nhớ nguồn” của dân tộc. Phong trào tạo nên một tinh thần công tác mới thích hợp với lứa tuổi và điều kiện sinh hoạt của thiếu niên, nhi đồng, là niềm vui của tuổi thơ được góp phần thiết thực vào cuộc kháng chiến; giúp tổ chức Đội ngày càng trưởng thành hơn. Phong trào Trần Quốc Toản đã trở thành một nội dung công tác lâu dài của Đội, gắn bó mãi với lịch sử và hoạt động của Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh.
1.2. Phong trào Kế hoạch nhỏ
- Năm 1958, theo sáng kiến của thiếu nhi tỉnh Sơn Tây (nay là Hà Nội) và thành phố Hải Phòng. Phong trào đã tập hợp các bạn thiếu nhi cùng tham gia làm kế hoạch nhỏ lấy tiền góp chung xây dựng “Nhà máy nhựa Tiền Phong” đặt tại Hải Phòng. Ngày 2/12/1958, Bác Tôn Đức Thắng đã viết thư hoan nghênh sáng kiến đó và cho phép mở rộng phong trào kế hoạch nhỏ trong thiếu nhi.
- Phong trào Kế hoạch nhỏ mang tính giáo dục cao, đem lại hiệu quả thiết thực trong đời sống xã hội, trong học tập và rèn luyện ý thức tiết kiệm, bảo vệ môi trường trong thiếu nhi.
1.3. Phong trào Nghìn việc tốt.
- Năm 1961, phong trào hoạt động Đội được thiếu niên, nhi đồng thực hiện sâu rộng trên mọi mặt. Để kịp thời động viên, khích lệ, liên đội Tam Sơn, Tiên Sơn, Bắc Ninh có sáng kiến dấy lên phong trào “Làm nghìn việc tốt thực hiện 5 điều Bác Hồ dạy” giành danh hiệu “Cháu ngoan Bác Hồ”.
- Phong trào Nghìn việc tốt nhằm tổng kết nâng cao cả về mặt lí luận và thực tiễn trong các em, đồng thời nhằm biểu dương các em đạt thành tích trong mọi mặt hoạt động.
1.4. Phong trào “Thiếu nhi Việt Nam thi đua làm theo 5 điều Bác Hồ dạy”
- Năm 2007, hưởng ứng cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Hội đồng Đội Trung ương phát động trong thiếu nhi cả nước cuộc vận động “Thiếu nhi Việt Nam thi đua thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy” nhằm khơi dậy trong thiếu nhi niềm tự hào về truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc gắn với cuộc đời, sự nghiệp và tấm gương đạo đức của Bác Hồ.
- Năm 2015, tại Đại hội Cháu ngoan Bác Hồ toàn quốc lần thứ VIII, Hội đồng Đội Trung ương đã phát động trong thiếu nhi cả nước phong trào “Thiếu nhi Việt Nam thi đua làm theo 5 điều Bác Hồ dạy”
- Thông qua phong trào, các em có thêm nhiều điều kiện để thi đua học tập, tìm hiểu, thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy; nghiên cứu, tìm hiểu những tư liệu, những tác phẩm văn học, nghệ thuật và điện ảnh tiêu biểu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng của Bác để từ đó tạo ra niềm tin, sự đoàn kết thống nhất, nâng cao vai trò, trách nhiệm của lớp măng non đất nước trong thời kỳ mới.
1.4. Cuộc vận động “Giúp bạn đến trường”
- Năm 2008, nhằm phát huy vai trò tích cực của Đội TNTP Hồ Chí Minh trong công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên nhi đồng; tham gia khắc phục tình trạng học sinh bỏ học, Hội đồng Đội Trung ương triển khai trong thiếu nhi cả nước cuộc vận động "Giúp bạn đến trường".
- Thông qua cuộc vận động nhằm phát huy tinh thần tương thân tương ái, chia sẻ khó khăn, giúp bạn vượt khó vươn lên trong thiếu nhi; tinh thần tình nguyện vì đàn em thân yêu của đội ngũ cán bộ phụ trách Đội, thực hiện các công trình, phần việc đem lại hiệu quả thiết thực, qua đó bổ sung kiến thức, hỗ trợ nguồn lực vật chất và tinh thần giúp đỡ học sinh bỏ học trở lại trường.
2. Hoạt động của Đội TNTP Hồ Chí Minh
2.1. Hoạt động giáo dục truyền thống, đạo đức nếp sống và hoạt động phục vụ học tập, văn hoá:
- Hoạt động giáo dục đạo đức, nếp sống: Nhằm giúp thiếu nhi nâng cao hiểu biết về truyền thống cách mạng của Đảng, của Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và Đội TNTP Hồ Chí Minh. Giáo dục các em về tình yêu quê hương đất nước, tinh thần tự lập, tự cường, truyền thống bất khuất, kiên cường và giàu lòng nhân ái của dân tộc Việt Nam. Biết ơn những anh hùng, liệt sĩ, ông bà, cha mẹ, thầy cô.
- Hoạt động phục vụ học tập, văn hoá: Giúp thiếu nhi hiểu được mục đích, động cơ và có thái độ học tập đúng đắn, học có phương pháp, từ đó khích lệ tinh thần hứng thú say mê trong học tập; rèn luyện ý thức tổ chức kỉ luật trong học tập, biết đoàn kết giúp đỡ nhau vượt khó vươn lên để có được những phương pháp học tập tốt nhất. Từ những kiến thức đã được tiếp thu trên lớp, biết vận dụng và đưa vào cuộc sống. Nhờ đó, có thể củng cố được những kiến thức đã học, đồng thời mở rộng tầm hiểu biết đối với thế giới xung quanh.
2.2. Hoạt động vui chơi giải trí và phát triển; hoạt động lao động và sáng tạo:
- Hoạt động vui chơi giải trí và phát triển: Các hoạt động này được coi là phương tiện giáo dục thiếu nhi nhanh nhất, dễ tiếp thu nhất và đạt hiệu quả cao nhất; có ý nghĩa giáo dục to lớn, làm cân bằng trạng thái tâm lí tinh thần cho thiếu nhi sau những giờ học căng thẳng. Hoạt động vui chơi, giải trí góp phần rèn luyện ý thức tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, tình yêu thương bạn bè; giúp các em rèn luyện thể chất, có sức khoẻ, óc thẩm mĩ, có nếp sống lành mạnh, biết giao tiếp ứng xử trong xã hội.
- Hoạt động lao động - sáng tạo: Nhằm hướng dẫn thiếu nhi làm quen với lao động, biết yêu lao động, yêu quý và tôn trọng thành quả lao động. Giúp các em có khả năng tự phục vụ cho bản thân và gia đình; gắn bó với đời sống xã hội, với quê hương đất nước, góp phần làm đẹp thêm quê hương. Là dịp để các em vận dụng những kiến thức đã học vào đời sống theo phương châm “Học đi đôi với hành”, từ đó hình thành được ý thức, thái độ và tác phong của người lao động mới, lao động tự giác có kỉ luật, sáng tạo và đạt năng suất ngày càng cao.
2.3. Hoạt động xã hội; hoạt động giáo dục tinh thần đoàn kết, hữu nghị quốc tế
- Hoạt động xã hội: Nhằm xây dựng tình cảm tốt đẹp cho thiếu nhi, nâng cao ý thức trách nhiệm của lớp măng non đất nước trong thời kỳ mới, hình thành và phát triển cho các em đức hy sinh, lòng nhân ái, vị tha, kích thích tính tích cực, chủ động của thiếu nhi góp phần vào việc xây dựng cộng đồng. Khơi dậy trong các em niềm tự hào, tính tích cực xã hội và mong muốn kế tục một cách xứng đáng với truyền thống cần cù, hiếu học của các thế hệ cha ông.
- Hoạt động giáo dục tinh thần đoàn kết, hữu nghị quốc tế: Nhằm giúp đáp ứng nhu cầu giao tiếp, kết bạn, tìm hiểu bạn bè, thăm hỏi, giúp đỡ lẫn nhau. Giúp các em hiểu biết về bạn bè thiếu nhi quốc tế, tìm hiểu về tổ chức và hoạt động của các bạn thiếu nhi thế giới, nhất là thiếu nhi trong khu vực. Tăng cường tình đoàn kết, hợp tác ngày một tốt hơn của thiếu nhi Việt Nam với thiếu nhi thế giới. Hình thành bản lĩnh hội nhập, kĩ năng hội nhập quốc tế trong tình hình xu thế hội nhập toàn cầu.
Theo https://thieunhivietnam.vn/
Kỷ niệm 121 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu (5/5/1902 - 5/5/2023): Người chiến sĩ cộng sản tiêu biểu với tầm nhìn chiến lược
Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Phan Đăng Lưu là tấm gương đạo đức sáng ngời của một con người tận trung với nước, tận hiếu với dân, không màng danh lợi.
Với 39 năm tuổi đời, 16 năm hoạt động cách mạng liên tục, trong đó có hơn 7 năm bị giam cầm trong lao tù đế quốc, đồng chí luôn có niềm tin tuyệt đối với Đảng, niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi tất yếu của cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 5-5-1902 trong một gia đình nhà Nho, có truyền thống yêu nước ở thôn Đông, xã Tràng Thành (nay là xã Hoa Thành), huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An. Thuở nhỏ, vốn thông minh, ham học, Phan Đăng Lưu theo học chữ Hán, sau học chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Giai đoạn 1923-1924, sau khi tốt nghiệp Trường Canh nông thực hành ở Tuyên Quang, Phan Đăng Lưu được nhận vào làm viên chức của Sở Canh nông Bắc Kỳ rồi chuyển sang Sở Canh nông Trung Kỳ. Đồng chí đã sớm nhận ra rằng, một công chức dưới chế độ thực dân không dễ gì làm lợi cho dân, cho nước; đồng chí quyết định chuyển hướng tập trung vào nghiên cứu các môn khoa học chính trị-xã hội, coi đó là khởi điểm cho con đường đi mới của mình.
Từ một công chức, đồng chí đã trở thành nhà hoạt động cách mạng tràn đầy nhiệt huyết, tham gia hoạch định đường lối, phát triển tổ chức, đào tạo cán bộ và đặc biệt là góp phần quan trọng vào việc định hướng phát triển Đảng Tân Việt theo đường lối của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc thành lập năm 1925. Đồng chí tham gia lập lại Xứ ủy Trung Kỳ, được cử vào ban lãnh đạo Xứ ủy và tham gia chỉ đạo cuộc đấu tranh đòi các quyền dân sinh, dân chủ ở Trung Kỳ, trực tiếp chỉ đạo cuộc tuyển cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ (đầu năm 1937). Tháng 9-1937, đồng chí được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tiếp tục tham gia lãnh đạo Xứ ủy Trung Kỳ; tháng 9-1939, được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh Nam Kỳ. Sau khi tham gia Hội nghị Trung ương lần thứ bảy của Đảng (tháng 11-1940) tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), khi vừa về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu bị mật thám Pháp bắt; ngày 3-3-1941, đồng chí bị tòa án binh của chính quyền thực dân Pháp kết án tử hình.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, với tầm nhìn chiến lược, đồng chí Phan Đăng Lưu luôn tích cực, chủ động trong công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức quần chúng giác ngộ cách mạng, lý tưởng của Đảng, thể hiện rõ là: Cuối năm 1927, đầu năm 1928, trên cương vị là Ủy viên Thường vụ Đảng Tân Việt phụ trách tuyên truyền, đồng chí đã dịch và biên soạn nhiều tư liệu quý như "A.B.C Chủ nghĩa Mác", "Dân chủ mới"; dịch các cuốn "Xã hội luận", "Lịch sử các học thuyết kinh tế"... Các cuốn sách và bài viết của đồng chí đã góp phần thiết thực thức tỉnh nhiều trí thức, thanh niên, học sinh và thấm dần vào các tầng lớp nhân dân lao động. Trong chốn lao tù, nhận thấy lính gác ngục người dân tộc Ê Đê vừa không biết tiếng Kinh, vừa bị kích động hằn thù dân tộc, chia rẽ Kinh-Thượng, đồng chí Phan Đăng Lưu đã kết hợp với một số anh em tù chính trị bí mật ra tờ báo “Doãn Đê tù báo”. Tờ báo được bí mật viết tay, lưu truyền trong nội bộ nhà tù, báo ra hằng tuần, đọc xong rồi hủy đi, vừa là công cụ giác ngộ lính người dân tộc Ê Đê, vừa là công cụ tuyên truyền của Đảng.
Lãnh đạo Xứ ủy Trung Kỳ, đồng chí đã chỉ đạo cuộc đấu tranh cải tổ Viện Dân biểu Trung Kỳ kết hợp với các cuộc đấu tranh của quần chúng giành thắng lợi to lớn. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là đồng chí Phan Đăng Lưu, cuộc đấu tranh đã biến Viện Dân biểu thành diễn đàn đấu tranh công khai của Đảng hướng tới các mục tiêu đòi các quyền tự do, dân chủ: Tập hợp nhân dân đấu tranh đòi giảm thuế, tăng thêm quyền cho Viện Dân biểu, đòi tự do báo chí, thả tù chính trị, tự do nghiệp đoàn, chống bọn phản động thuộc địa, vạch mặt bọn tham quan ô lại lợi dụng chức quyền bán nước, hại dân...
Sau khi được Trung ương phân công phụ trách phong trào các tỉnh Nam Kỳ (tháng 9-1939), cùng với Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí Phan Đăng Lưu đã có nhiều đóng góp quan trọng, đưa phong trào cách mạng Nam Kỳ phát triển lên một bước mới. Nhiều chỉ thị của đồng chí được thi hành nhằm vận dụng thời cơ, siết chặt kỷ luật, củng cố tổ chức đi vào hoạt động bí mật và vận dụng sáng tạo các phương pháp, hình thức đấu tranh phù hợp trên tinh thần đặt yêu cầu “dân tộc giải phóng” lên hàng đầu, đặc biệt là chuẩn bị xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ sáu của Đảng (tháng 11-1939).
Với tầm nhìn chiến lược, tại Hội nghị Trung ương lần thứ bảy, đồng chí Phan Đăng Lưu nhận thấy thời cơ khởi nghĩa chưa chín muồi, nếu chưa chuẩn bị kỹ lưỡng, thống nhất trên toàn quốc đã tiến hành khởi nghĩa riêng lẻ sẽ dẫn đến thất bại. Tình hình lúc đó đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thật sáng suốt, kịp thời của Bộ chỉ huy tối cao của Đảng. Tinh thần đó được Trung ương tiếp thu nghiêm túc và có chủ trương, quyết sách phù hợp với tình hình thực tiễn cách mạng; đóng góp to lớn của đồng chí Phan Đăng Lưu góp phần tích cực, quan trọng tạo nên thành công của Hội nghị Trung ương lần thứ bảy.
Quá trình cống hiến và hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí Phan Đăng Lưu luôn thể hiện rõ lòng yêu nước và tình thương yêu nhân dân; đồng chí luôn quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ có nhiệt huyết, đạo đức cánh mạng, đồng chí đã đặt công tác đào tạo, xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ cho Đảng lên hàng đầu. Quan điểm đào tạo cán bộ của đồng chí rất linh hoạt, toàn diện: Dạy chữ Quốc ngữ, khoa học, văn học, báo chí đến lý luận Mác-Lênin, đường lối, chủ trương của Đảng và phương pháp hoạt động cách mạng... tùy trình độ của mỗi lớp, mỗi người mà có chương trình, cách thức phù hợp. Những cống hiến to lớn của đồng chí Phan Đăng Lưu cho Đảng, cho cách mạng là kết quả tất yếu của việc cần kiệm tích lũy vốn hiểu biết sâu rộng trên cơ sở miệt mài học tập, lao động và hoạt động cách mạng. Ở đồng chí Phan Đăng Lưu, tấm gương đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư luôn thống nhất và là sự biểu hiện toàn diện, cụ thể của tấm gương đạo đức tận trung với nước, tận hiếu với dân.
Cuộc đời hoạt động cách mạng oanh liệt của đồng chí Phan Đăng Lưu cùng những đóng góp của đồng chí cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc là rất quan trọng và to lớn, thể hiện rõ là người chiến sĩ cộng sản kiên cường, mẫu mực, có lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, một nhà lãnh đạo cách mạng có tầm nhìn xa trông rộng, đầy mưu lược, khôn khéo, dũng cảm, kiên cường; cống hiến và hy sinh trọn đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, trở thành nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam.
Theo QĐND điện tử
PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ người Việt Nam đã xây dựng, bồi đắp, hun đúc nên các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp. Các giá trị đó đã làm nên cốt cách và bản sắc văn hóa; là nền móng, sức mạnh nội sinh để dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, xây dựng đất nước độc lập, tự do, ngày càng giàu đẹp, văn minh, hiện đại.
ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Lòng yêu nước, tinh thần bất khuất, ý chí tự lực, tự cường.
Lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam được hình thành từ rất sớm, bắt nguồn từ tình cảm yêu mến, gắn bó tha thiết với quê hương, xứ sở, từ lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Tình yêu nước một cách tự nhiên của mỗi cá nhân, mỗi cộng đồng dần phát triển thành chủ nghĩa yêu nước, trở thành động lực tinh thần to lớn trong mỗi giai đoạn dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có sự thống nhất chặt chẽ giữa ý thức bảo vệ chủ quyền non sông đất nước, tinh thần độc lập dân tộc với ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, quyết tâm bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, không chịu khuất phục trước các thế lực ngoại xâm. Trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, yêu nước là giá trị nổi bật và cơ bản nhất, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Nhìn lại lịch sử, dân tộc Việt Nam đã phải trải qua hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Chính lòng yêu nước đã làm nên sức mạnh nội sinh, là nguồn lực không bao giờ cạn, bảo đảm cho sự trường tồn của đất nước qua mọi thăng trầm của lịch sử. Nhiều tấm gương sáng ngời, biểu tượng cao đẹp của lòng yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng đã được lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ghi nhận.
Tinh thần đoàn kết dân tộc.
Ở Việt Nam, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng là một đặc trưng gốc rễ của làng xã, được hình thành từ rất sớm trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Trong quá trình đó, người dân Việt Nam luôn tương trợ, hợp tác, giúp đỡ nhau, tạo nên sức mạnh tinh thần và vật chất để chiến thắng mọi kẻ thù. Cùng với quá trình phát triển của đất nước, sự đoàn kết, đùm bọc là yếu tố tinh thần nổi bật, khắc sâu qua các thế hệ.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, với ý chí sắt đá và sự đồng lòng của dân tộc, thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân đã phát huy cao độ sức mạnh của toàn dân tộc trong 9 năm kháng chiến, làm nên Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.
Những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đầy khó khăn, gian khổ, với khát vọng cháy bỏng “không có gì quý hơn độc lập, tự do”, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo toàn dân đoàn kết một lòng vượt qua mọi thử thách, hy sinh, gian khổ để làm nên đỉnh cao thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thời kỳ xây dựng, phát triển đất nước, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, toàn thể dân tộc Việt Nam luôn đoàn kết thực hiện mục tiêu chung của đất nước. Với vai trò hạt nhân, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã không ngừng nỗ lực, góp phần củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược của Đảng.
Lòng yêu thương con người, tinh thần nhân đạo, vị tha, hòa hiếu.
Giá trị đạo đức truyền thống của con người Việt Nam còn được biểu hiện ở lòng yêu thương con người, kết thành chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn cao cả. Tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ, sẻ chia mỗi khi gặp hoạn nạn, thiên tai... được hình thành một cách tự nhiên trong điều kiện sống với thiên nhiên khắc nghiệt, chiến tranh kéo dài. Phát huy truyền thống “Thương người như thể thương thân”, mỗi người dân Việt Nam luôn có cách ứng xử, yêu thương người khác như chính bản thân mình, vừa biểu hiện sự thấu hiểu, cảm thông, hiểu mình, hiểu người vừa chứa đựng tư tưởng nhân văn cao đẹp. Tinh thần nhân đạo cao cả, sự hòa hiếu, độ lượng, bao dung còn được thể hiện với cả kẻ thù của dân tộc: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”(1)...
Cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong học tập, lao động sản xuất và chiến đấu.
Với điều kiện sinh tồn đầy khó khăn, khắc nghiệt, con người Việt Nam không thể tồn tại nếu không cần cù, chăm chỉ, sáng tạo trong lao động. Chính mảnh đất giàu tài nguyên nhưng nhiều thiên tai, khí hậu khắc nghiệt đã rèn giũa, hình thành tính cách chịu thương, chịu khó, biết trân trọng thành quả lao động của mình, của người khác, linh hoạt trong sản xuất. Xuất phát từ đòi hỏi của sự sinh tồn, tinh thần quả cảm và sự linh hoạt, sáng tạo đã giúp dân tộc Việt Nam ứng phó, tồn tại trong bất cứ thử thách nào. Bên cạnh đó, trải qua các cuộc đấu tranh vệ quốc, con người Việt Nam đã thể hiện sự dũng cảm, thông minh khi chiến đấu chống lại kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần.
Yêu chuộng hòa bình.
Yêu chuộng hòa bình là giá trị được kết tinh từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chính những mất mát, đau thương của chiến tranh đã khiến dân tộc Việt Nam thấu hiểu hơn hết ý nghĩa, giá trị của hòa bình bởi nỗi đau chiến tranh càng lớn thì khát vọng hòa bình càng mãnh liệt. Những người dân nước Việt luôn coi “việc binh là việc bất đắc dĩ” - chỉ cầm súng khi kẻ thù buộc phải chiến đấu để giữ đất, giữ làng; chiến đấu để bảo vệ hòa bình, để có hòa bình, để rồi “súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa”.
Các giá trị đạo đức - văn hóa truyền thống tiêu biểu được kết tinh từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, được các thế hệ không ngừng kế thừa, bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm. Bên cạnh đó còn có các giá trị khác cũng trở thành phẩm chất phổ biến của cả dân tộc như anh hùng, dũng cảm, vì nghĩa, khiêm tốn, giản dị, hiếu học… Các giá trị đạo đức không tồn tại riêng lẻ mà liên quan đến nhau, đức tính này là điều kiện, là biểu hiện của đức tính kia. Yêu Tổ quốc gắn liền với yêu thương con người, ý thức về cộng đồng, về lý tưởng phục vụ Tổ quốc, về việc biết đặt cái chung lên trên cái riêng; cần cù, sáng tạo trong lao động; đoàn kết để xây dựng, bảo vệ những thành quả do mình tạo ra…
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH - SỰ HỘI TỤ VÀ KẾT TINH ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến đạo đức và quá trình tu dưỡng đạo đức của người cách mạng. Sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh gắn liền với sự phát triển và xây dựng đạo đức cách mạng mà Người là biểu tượng sáng ngời.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một người cộng sản mẫu mực, kiên định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Đó là đạo đức của người kiên trì đấu tranh, dâng hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp của mình cho lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội và giải phóng con người.
Đạo đức Hồ Chí Minh là sự hội tụ và kết tinh đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Người là tấm gương mẫu mực về giữ gìn, phát huy những giá trị đạo đức truyền thống đó để trở thành nguồn lực nội sinh của dân tộc, góp phần thúc đẩy sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Trung với nước, hiếu với dân.
Trung, hiếu là đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam nói riêng và của người phương Đông nói chung, được Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển trong điều kiện mới. Theo Người, trung với nước là trung thành vô hạn với lợi ích quốc gia, dân tộc, với sự nghiệp đấu tranh cách mạng của Đảng, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, làm cho đất nước “sánh vai với các cường quốc năm châu”.
Ngay từ những ngày đầu cách mạng, khi mở lớp huấn luyện, đào tạo cán bộ đầu tiên ở Quảng Châu, Trung Quốc, một trong những vấn đề đầu tiên Hồ Chí Minh quan tâm là đào tạo những người tự nguyện phấn đấu, hy sinh suốt đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng, biết đoàn kết và tổ chức nhân dân cùng phấn đấu vì sự nghiệp chung.
Khi Đảng được thành lập, Người luôn nhắc nhở các đồng chí của mình: “Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau...”(2).
Lòng yêu nước, trung với nước là cơ sở để Hồ Chí Minh đúc rút thành thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3).
Về chữ hiếu, theo Hồ Chí Minh là hiếu với dân. Người chỉ rõ: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân… Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”(4). Hiếu với dân là “phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”(5). Theo đó, Đảng lãnh đạo để nhân dân có quyền và thực hiện quyền làm chủ; lãnh đạo phải gần dân, sát dân để hiểu dân tình, dân tâm, dân nguyện; phải “kính trọng, lễ phép” với nhân dân, học hỏi nhân dân, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí để nhân dân hiểu và thực hiện đúng quyền và trách nhiệm. Vì vậy, “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh(6) .
Trung với nước, hiếu với dân kết tinh trong đạo đức đạo đức Hồ Chí Minh là lòng yêu nước thương nòi, tự hào với truyền thống của dân tộc như Người đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy càng sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(7); là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người dân với cộng đồng, với sự nghiệp cách mạng, với sự hưng vong của đất nước; là ý chí và nghị lực vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hy sinh vì mục tiêu chung; là sự tin yêu, kính trọng nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân…
Yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình.
Cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh là tấm gương cao đẹp về tình yêu thương con người. Khi đất nước chưa được độc lập, tự do, tình yêu thương con người, yêu nước là động lực thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Khi tìm thấy con đường cứu nước và giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh tìm cách khơi dậy trong con người Việt Nam lòng yêu nước, niềm tin, ý chí cách mạng để họ đứng lên đấu tranh giải phóng mình, biến ước mơ, lý tưởng thành hiện thực. Đất nước hòa bình, thống nhất, nhân dân bắt tay xây dựng cuộc sống mới, tình yêu thương con người của Hồ Chí Minh là quan hệ gắn bó với nhân dân, là những quan tâm tới đời sống vật chất, tinh thần của mọi tầng lớp trong xã hội.
Tình yêu thương, nhân ái của Hồ Chí Minh là nhân tố xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc. Hiểu thấu tâm tư, tình cảm của nhân dân, Người đã khơi gợi lòng tự hào, tự tôn dân tộc, biến khát vọng độc lập, tự do thành mục tiêu chung của toàn dân trong từng thời kỳ cách mạng. Lấy lòng nhân ái làm gốc, Hồ Chí Minh nhiều lần kêu gọi mọi tầng lớp nhân dân vượt qua mọi định kiến để phát huy tài năng, trí tuệ, xây dựng khối đại đoàn kết: “không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào, chính kiến nào và trước đây đã đứng về phe nào, chúng ta hãy thật thà cộng tác, vì dân nước mà phấn đấu để thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ”(8).
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn đặt con người vào vị trí trung tâm của mọi vấn đề để giải quyết. Người đã gạn lọc những nét hay, nét đẹp trong đạo lý làm người của ông cha ta để xây dựng nên những chuẩn mực, nhân cách mới cho con người Việt Nam thời đại mới. Đây là phẩm chất nổi bật, cơ bản, trung tâm của đạo đức Hồ Chí Minh; gắn liền với hoạt động hàng ngày của Người, được Người xem là nền tảng của đời sống mới, là mối quan hệ “với tự mình”. Đây cũng là phẩm chất Người đề cập nhiều nhất trong giáo dục cán bộ, đảng viên.
Ngay từ năm 1927, khi viết tập bài giảng Đường kách mệnh cho lớp đào tạo cán bộ đầu tiên của Đảng, người đã yêu cầu cán bộ cách mạng “Tự mình phải: Cần kiệm/ Hòa mà không tư/ Cả quyết sửa lỗi mình/ Cẩn thận mà không nhút nhát/ Hay hỏi/ Nhẫn nại (chịu khó)/ Hay nghiên cứu, xem xét/ Vị công vong tư/ Không hiếu danh, không kiêu ngạo/ Nói thì phải làm/ Giữ chủ nghĩa cho vững/ Hy sinh/ Ít lòng ham muốn về vật chất/ Bí mật. Đối người phải: Với từng người thì khoan thứ/ Với đoàn thể thì nghiêm/ Có lòng bày vẽ cho người/ Trực mà không táo bạo/ Hay xem xét người. Làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng/ Quyết đoán/ Dũng cảm/ Phục tùng đoàn thể”(9). Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lề lối làm việc, những phẩm chất, tư cách đạo đức đó được Người đúc rút thành: “Nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm” và sau này là “Cần, kiệm, liêm, chính”.
Phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính luôn được Hồ Chí Minh nhắc đến mỗi khi Người đề cập đến vấn đề đạo đức; coi là phẩm chất đạo đức cần thiết đối với tất cả mọi người, càng cần thiết đối với cán bộ, đảng viên: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/ Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/ Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/ Thiếu một mùa, thì không thành trời/ Thiếu một phương, thì không thành đất. Thiếu một đức, thì không thành người(10).
Cần là lao động cần cù, siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, sáng tạo, có năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ý lại, không dựa dẫm. Có cần thì việc gì dù khó khăn đến mấy cũng làm được.
Kiệm là tiết kiệm tiền của dân, của nước, của bản thân mình, tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, từ nhiều cái to đến nhiều cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to, không hoang phí, không bừa phô trương, hình thức. Tiết kiệm là để tích trữ vốn, mở rộng sản xuất, không phải là keo kiệt, bủn xỉn. “Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc lợi ích cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm…Việc đáng tiêu mà không tiêu, là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm”(11).
Liêm là trong sạch, “luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”(12), “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của Nhà nước, của nhân dân”(13), “không tham địa vị, không tham tiền tài... Không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại, không bao giờ hủ hóa...”(14).
Chính là ngay thẳng, đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà.
Chí công là rất mực công bằng công tâm; vô tư là không được có lòng riêng, thiên vị. Muốn “chí công vô tư” phải chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, phải kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là dày xéo lên lợi ích cá nhân, mà phải giải quyết hài hòa quan hệ chung riêng, cần ưu tiên lợi ích chung.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư. Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư, ngược lại đã chí công, vô tư, một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” là nguyên tắc chỉ đạo thường xuyên trong toàn bộ đạo đức của Hồ Chí Minh. Người không chỉ đề ra và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thực hiện mà chính cuộc đời của Người là tấm gương mẫu mực trong thực hiện các chuẩn mực đạo đức đó.
Tinh thần quốc tế trong sáng.
Đây là phẩm chất đạo đức được Hồ Chí Minh thể hiện trong mối quan hệ quốc tế ngay từ những ngày Người bôn ba tìm đường cứu nước. Đó là tình hữu ái với những người lao động, những người vô sản các nước với tinh thần “Bốn phương vô sản đều là anh em”; là tình đoàn kết chiến đấu với những người yêu nước ở các nước thuộc địa và những người cộng sản trong phong trào cộng sản quốc tế; tình hữu nghị với nhân dân các nước, đặc biệt nhân dân Pháp, Liên Xô, Trung Quốc; ủng hộ sự nghiệp cách mạng của mỗi nước và bằng sự giúp đỡ chí tình với tinh thần “giúp bạn cũng là tự giúp mình”.
Đạo đức Hồ Chí Minh về đại đoàn kết quốc tế là sự mở rộng những quan niệm đạo đức, nhân đạo, nhân văn của Người ra phạm vi toàn nhân loại, vì Người là “Người Việt Nam nhất”, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
GÌN GIỮ, KẾ THỪA, PHÁT HUY GIÁ TRỊ ĐẠO ĐỨC TRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đất nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra sôi động. Mở cửa, giao lưu, hội nhập là điều kiện sống còn cho sự phát phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa. Để đủ sức làm chủ vận mệnh đất nước, con người Việt Nam cần có sự kết hợp hài hòa giữa giá trị đạo đức truyền thống với những phẩm chất và năng lực thời đại mới. Giá trị đạo đức truyền thống có sức mạnh tiềm tàng, có tính cốt lõi, ổn định, chỉ đạo hoạt động, củng cố, phát triển ý chí và bản lĩnh dân tộc. Một dân tộc có bản sắc đậm đà, có các giá trị đạo đức truyền thống sâu đậm sẽ không bao giờ bị thôn tính, hòa tan hay xóa nhòa.
“Không ai hiểu biết con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam bằng Hồ Chí Minh và không ai hiểu biết Bác Hồ bằng con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam…”(15). Nhận thức rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc gìn giữ, kế thừa và phát huy giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc được kết tinh trong tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, ngày 7/11/2006, Bộ Chính trị ra Chỉ thị số 06-CT/TW về học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Tiếp đó, ngày 15/5/2016, Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị số 05-CT/TW về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người cũng chính là sự kế thừa và phát huy đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam; nhằm góp phần làm cho bộ máy của Đảng và Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, đẩy lùi những tiêu cực, làm cho xã hội lành mạnh, văn minh, tiến bộ. Đồng thời mỗi người phải rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí, để Đảng xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân, xứng đáng là Đảng cách mạng chân chính do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Trong bối cảnh, tình hình mới, để tiếp tục xây dựng và phát huy giá trị đạo đức - văn hóa truyền thống, sức mạnh con người Việt Nam, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, truyền thống và lịch sử dân tộc, ý thức trách nhiệm xã hội cho các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên. Thực hiện những giải pháp đột phá nhằm ngăn chặn có hiệu quả sự xuống cấp về đạo đức, lối sống, đẩy lùi tiêu cực xã hội và các tệ nạn xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Từng bước vươn lên khắc phục những hạn chế của con người Việt Nam; xây dựng con người Việt Nam thời đại mới, gắn bó chặt chẽ, hài hòa giữa giá trị truyền thống và giá trị hiện đại”(16).
Để đạt được những mục tiêu nêu trên, yêu nước phải gắn liền với yêu CNXH, phải thể hiện lòng tự hào, tự tôn dân tộc của người dân Việt Nam, dù ở bất cứ đâu cũng luôn có tình cảm gắn bó tha thiết với quê hương, đất nước, sẵn sàng xả thân vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Cần bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, lối sống, niềm tin, tình cảm, ý chí, lòng quyết tâm để thực hiện mục tiêu của Đảng. Đặc biệt, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII, cần khơi dậy mạnh mẽ lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; tinh thần đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế; sự khiêm tốn, cần cù, tự giác, dũng cảm, kiên cường, mưu trí, sáng tạo…
Với những giá trị đạo đức được hun đúc qua quá trình dựng nước và giữ nước, được phát huy trong bối cảnh, tình hình mới, đồng thời với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta có cơ sở vững chắc để tin tưởng rằng, sau 37 năm đổi mới, con người Việt Nam có đủ điều kiện, tiềm năng, sức mạnh để thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển đất nước mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.
Trung tướng, PGS. TS. TRẦN VI DÂN
Ủy viên Hội đồng lý luận Trung ương
Bộ Công an
_______________________
(1) Nguyễn Trãi: Bình Ngô đại cáo.
(2) (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, t.5, tr.290-291, 292.
(3) Lời Kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr.453.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.612.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.65.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.3
(8) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.9, tr.3, 145.
(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.280.
(10) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.117, 123.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.13, tr.70.
(15) Phạm Văn Đồng, Hồ Chí Minh tinh hoa và khí phách dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2012, tr.423.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.143.
Tháng 5/2023, một số chính sách mới, quy định mới quan trọng liên quan đến vấn đề quản lý, sử dụng đất đai; tiêu chí phân loại phim... bắt đầu có hiệu lực.
Sửa đổi, bổ sung nhiều quy định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai
Chính phủ ban hành Nghị định số 10/2023/NĐ-CP (Nghị định số 10) sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai, có hiệu lực từ ngày 20/5 tới. Nghị định đã bổ sung nhiều quy định mới quan trọng liên quan đến vấn đề quản lý, sử dụng đất đai.
Nghị định bổ sung Điều 17a vào Nghị định số 43/2014/NĐ-CP về đấu giá quyền sử dụng đất khi Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất. Việc tổ chức tham gia đấu giá quyền sử dụng đất phải có đủ các điều kiện: Thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất theo quy định tại Điều 55 và Điều 56 Luật Đất đai; đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 58 Luật Đất đai, khoản 2 và khoản 3 Điều 14 Nghị định 43/2014/NĐ-CP; phải nộp tiền đặt trước bằng 20% tổng giá trị thửa đất, khu đất tính theo giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất; không thuộc đối tượng bị cấm tham gia đấu giá theo quy định của pháp luật; đáp ứng điều kiện quy định của pháp luật về nhà ở và pháp luật về kinh doanh bất động sản đối với trường hợp đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án nhà ở, dự án kinh doanh bất động sản khác.
Hộ gia đình, cá nhân tham gia đấu giá quyền sử dụng đất phải có đủ các điều kiện: Thuộc đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và đáp ứng các điều kiện khác theo quy định. Trường hợp hộ gia đình, cá nhân tham gia đấu giá quyền sử dụng đất để thực hiện dự án đầu tư thì phải bảo đảm các điều kiện quy định tại Điều 17a Nghị định 43/2014/NĐ-CP (sửa đổi tại Nghị định số 10/2023/NĐ-CP).
Bên cạnh đó, đất đưa ra đấu giá quyền sử dụng đất phải đáp ứng quy định tại khoản 1 Điều 119 Luật Đất đai; đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định giá khởi điểm để đấu giá quyền sử dụng đất; việc đấu giá quyền sử dụng đất thực hiện đối với từng thửa đất; đã có quy hoạch chi tiết 1/500 được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt đối với đất thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở.
Kể từ thời điểm công bố kết quả trúng đấu giá thì khoản tiền đặt trước và tiền lãi (nếu có) được chuyển thành tiền đặt cọc để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tài chính của người sử dụng đất.
Trường hợp người trúng đấu giá không nộp tiền hoặc không nộp đủ tiền trúng đấu giá quyền sử dụng đất theo quy định tại điểm d khoản 5 Điều 68 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP thì người trúng đấu giá không được nhận lại tiền đặt cọc.
Đối với trường hợp người trúng đấu giá đã nộp nhiều hơn khoản tiền đặt cọc thì được Nhà nước hoàn trả số tiền chênh lệch nhiều hơn so với số tiền đặt cọc theo quy định.
Ngoài nội dung trên, Nghị định còn bổ sung trình tự thu hồi đất đối với trường hợp chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư theo quy định về đầu tư.
Nghị định cũng quy định chi tiết về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) qua mạng. Theo đó, người dân sẽ được nộp hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận bằng hình thức trực tuyến và nhận hồ sơ qua bưu điện, mà không phải trực tiếp đến tận cơ quan quản lý để thực hiện như trước.
Thay đổi cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính
Ngày 20/4/2023, Chính phủ ban hành Nghị định 14/2023/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính. Nghị định có hiệu lực từ ngày 15/5/2023.
Theo Nghị định, Bộ Tài chính là cơ quan của Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về: tài chính - ngân sách, hải quan; kế toán; kiểm toán độc lập; giá; chứng khoán; bảo hiểm; hoạt động dịch vụ tài chính và dịch vụ khác thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp thuộc bộ theo quy định của pháp luật.
Cơ cấu tổ chức của Bộ Tài chính gồm 28 đơn vị thay vì có 29 đơn vị như quy định cũ.
Vụ Chính sách thuế tiếp tục thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo các quy định pháp luật hiện hành cho đến khi Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục Quản lý, giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí.
Quy định tiêu chí phân loại phim và thực hiện hiển thị mức phân loại phim, cảnh báo
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành Thông tư số 05/2023/TT-BVHTTDL quy định tiêu chí phân loại phim và thực hiện hiển thị mức phân loại phim, cảnh báo. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20/5/2023.
Thông tư gồm 6 điều, quy định tiêu chí phân loại và thực hiện hiển thị mức phân loại phim, cảnh báo phim áp dụng chung cho các hình thức phổ biến phim. Thông tư này áp dụng đối với cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động phổ biến phim.
Mức phân loại phim theo tiêu chí phân loại được xếp từ thấp đến cao như sau: Loại P: Phim được phép phổ biến đến người xem ở mọi độ tuổi; loại K: Phim được phổ biến đến người xem dưới 13 tuổi với điều kiện xem cùng cha, mẹ hoặc người giám hộ; loại T13 (13+): Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 13 tuổi trở lên; loại T16 (16+): Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 16 tuổi trở lên; loại T18 (18+): Phim được phổ biến đến người xem từ đủ 18 tuổi trở lên; loại C: Phim không được phép phổ biến.
Tiêu chí phân loại phim bao gồm: Tiêu chí về chủ đề, nội dung; về bạo lực; về khỏa thân, tình dục; về ma túy, chất kích thích, chất gây nghiện; về kinh dị; về ngôn ngữ thô tục; về hành vi nguy hiểm, dễ bắt chước.
Ngoài ra, Thông tư còn bao gồm các nội dung về: Nguyên tắc phân loại phim; nguyên tắc thực hiện hiển thị mức phân loại phim; nguyên tắc thực hiện cảnh báo; nội dung hiển thị mức phân loại phim, cảnh báo…
Điều chỉnh tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương giáo viên
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Thông tư số 08/2023/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư số 01/2021/TT-BGDĐT, 02/2021/TT-BGDĐT, 03/2021/TT-BGDĐT, 04/2021/TT-BGDĐT quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và bổ nhiệm, xếp lương viên chức giảng dạy trong các cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông công lập. Thông tư có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30/5/2023.
Theo quy định mới tại Thông tư 08/2023/TT-BGDĐT, Bộ Giáo dục vẫn giữ nguyên quy định giáo viên được bổ nhiệm hạng chức danh nghề nghiệp nào thì được xếp lương theo hạng đó như hiện hành, tuy nhiên có sửa đổi, bổ sung một số nội dung sau: Chỉ quy định một chứng chỉ chung đối với các hạng giáo viên; quy định tiêu chuẩn về đạo đức nghề nghiệp chung cho các hạng chức danh nghề nghiệp; không yêu cầu giáo viên tiểu học, trung học cơ sở hạng I phải có trình độ thạc sĩ; thời gian giữ chức danh nghề nghiệp giáo viên mầm non hạng III còn 3 năm; giáo viên không cần nộp minh chứng đã thực hiện nhiệm vụ của hạng khi thực hiện bổ nhiệm hạng chức danh nghề nghiệp mới.
Việc sửa đổi, bổ sung như trên sẽ giúp cho công tác bổ nhiệm, xếp lương được thực hiện đơn giản hơn, tránh phát sinh việc yêu cầu giáo viên cung cấp nhiều minh chứng không cần thiết.
Quy định mới sẽ khắc phục được vướng mắc trong việc xếp lương giáo viên mầm non và không có trường hợp giáo viên tiểu học, trung học cơ sở mới tuyển dụng đang giữ hệ số lương 2,34, 2,67, 3,00 được bổ nhiệm hạng II mới và chuyển xếp vào hệ số lương 4,00; bảo đảm thống nhất về quy định thời gian giữ hạng giữa các cấp học và quy định của Bộ Nội vụ về thời gian giữ ngạch cán sự, chuyên viên, chuyên viên chính.
TTXVN/Báo Tin tức
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ĐOÀN