Hiệp định Paris (27/01/1973) - Thắng lợi chiến lược của cách mạng Việt Nam

Thứ hai - 27/01/2025 01:38
Lịch sử ngoại giao thế giới trước ngày 27/01/1973 - Ngày ký Hiệp định Paris về chiến tranh Việt Nam chưa từng có tiền lệ. Đó là các bên tham gia ký Hiệp định “Hoà bình” khi chiến tranh vẫn còn tiếp diễn; khi sức mạnh, ý chí và tham vọng của kẻ xâm lược vẫn còn. Hiệp định Paris được ký kết là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của quân và dân Việt Nam trong cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước vĩ đại.
Quang cảnh Lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27-1-1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris, Pháp. Ảnh tư liệu
Quang cảnh Lễ ký Hiệp định Paris, ngày 27-1-1973 tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris, Pháp. Ảnh tư liệu

Trong thời kỳ chống Mỹ, công tác đấu tranh ngoại giao được Đảng ta xác định là một trong 3 mặt trận đấu tranh của ta, cùng với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị, trong đó, đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị là nhân tố chủ yếu quyết định thắng lợi trên chiến trường, làm cơ sở cho thắng lợi trên mặt trận ngoại giao. Đặc điểm đấu tranh ngoại giao của ta trong thời kỳ này là: Chúng ta chỉ có thể giành được trên bàn hội nghị cái mà chúng ta giành được trên chiến trường. Tuy nhiên, đấu tranh ngoại giao không chỉ đơn thuần phản ánh cuộc chiến đấu trên chiến trường, mà trong tình hình quốc tế lúc bấy giờ, với tính chất của cuộc chiến tranh giữa ta và địch, đấu tranh ngoại giao giữ một vai trò quan trọng, tích cực và chủ động.

Với sức mạnh vượt trội chúng ta gấp nhiều lần về kinh tế và quân sự, nên sau khi hất cẳng được thực dân Pháp để độc chiếm miền Nam, các nhà lãnh đạo Mỹ cũng như bọn tay sai của chúng luôn hô hào ''Bắc tiến'', “Lấp sông Bến Hải'' và chuẩn bị đánh ra miền Bắc để thực hiện mục đích cuối cùng là xâm lược toàn bộ Việt Nam. Nhưng chúng đã gặp phải sức mạnh Việt Nam - Sức mạnh của ý chí độc lập dân tộc, sức mạnh của chính nghĩa, sức mạnh của lòng dũng cảm và trí tuệ Việt Nam, được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Bởi vậy mà sức mạnh của đế quốc Mỹ được cụ thể hoá qua các chiến lược chiến tranh: ''Đơn phương'', ''Đặc biệt'', ''Cục bộ'', “Việt Nam hoá'' và chiến lược chiến tranh phá hoại đối với miền Bắc xã hội chủ nghĩa đều lần lượt bị quân và dân ta đánh bại.

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh tư liệu

Sau hàng loạt thất bại nặng nề, nhất là sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1968 của nhân dân miền Nam, Tổng thống Mỹ Giôn-xơn cũng như các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã kết luận rằng không thể giành thắng lợi quân sự ở Việt Nam và đã đến lúc phải cứu nước Mỹ ra khỏi ''con đường hầm không lối thoát'' ở Việt Nam. Chính trong bối cảnh đó, Tổng thống Giôn-xơn buộc phải tuyên bố “phi Mỹ hoá” chiến tranh và chấp nhận thương lượng với Việt Nam.

Cuộc thương lượng chính thức hai bên, giữa đại diện Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và đại diện Chính phủ Mỹ họp phiên đầu tiên ở Paris, Thủ đô nước Cộng hoà Pháp diễn ra vào ngày 13/5/1968. Đến tháng 11/1968, hai bên thống nhất về thành phần và hình thức của hội nghị là Hội nghị bốn bên, tức là thêm Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (Từ tháng 6/1969 là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam) và Việt Nam Cộng hoà.

Hội nghị Paris về Việt Nam trải qua tất cả 202 phiên họp chung công khai, 24 cuộc tiếp xúc riêng, kéo dài trong thời gian 4 năm 9 tháng. Đây là một cuộc đấu tranh ngoại giao chưa từng có trong lịch sử Việt Nam cả về thời gian, qui mô cũng như tính chất của nó. Trong các phiên họp chung công khai cũng như trong các cuộc tiếp xúc riêng, do lập trường giữa bốn bên (thực chất là của hai bên Việt Nam và Mỹ) rất xa nhau, mâu thuẫn nhau, khiến cho cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt trên bàn thương lượng đến mức nhiều lúc phải gián đoạn cuộc thương lượng. Hội nghị tập trung bàn đến các vấn đề mấu chốt như: Việt Nam đòi Mỹ phải rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu ra khỏi miền Nam và buộc Mỹ tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam. Còn phía Mỹ trước sau nêu quan điểm ''có qua có lại'', đòi hai bên ''đều rút quân''. Mỹ đã ngang nhiên đặt địa vị của kẻ đi xâm lược ngang hàng với vị thế của người chống xâm lược.

Có thể nói, diễn biến và kết quả của Hội nghị Paris là sự phản ánh rõ nét tương quan lực lượng giữa ta và địch trên chiến trường. Mỹ là một tên đế quốc hiếu chiến, ngạo mạn, trong lịch sử gần hai trăm năm kể từ khi lập quốc (1776) chưa từng thất bại trong một cuộc chiến tranh nào (tính đến thời điểm diễn ra hội nghị Paris, lịch sử nước Mỹ đã từng diễn ra 9 cuộc chiến tranh), cộng với sức mạnh kinh tế, quân sự của một siêu cường, nên mặc dù thất bại nặng nề, nhưng Mỹ vẫn cố vin vào đó để áp đặt điều kiện với ta trên bàn hội nghị. Về phía ta, Đảng ta nhận định: Nếu ta không giành được những thắng lợi quyết định trên chiến trường thì đế quốc Mỹ sẽ không bao giờ chấp nhận những điều kiện chính đáng của ta đưa ra thảo luận trên bàn hội nghị.

Quán triệt quan điểm của Đảng, quân và dân ta đoàn kết một lòng, phát huy sức mạnh chính nghĩa và sự thông minh, quả cảm đã liên tiếp giành nhiều thắng lợi trên chiến trường, góp những dữ liệu quan trọng cho mặt trận ngoại giao. Đó là thắng lợi đánh bại chiến dịch Lam Sơn 719 ở đường 9 Nam Lào và cuộc hành quân tháng 01/1971 ở vùng Đông - Bắc Cămpuchia của ngụy quyền Sài Gòn. Tiếp đó, tháng 3/1972, quân dân miền Nam đã mở cuộc tấn công với quy mô lớn ở Quảng Trị, Bình Long,... mở rộng thêm nhiều vùng giải phóng. Đặc biệt, tháng 12/1972, quân dân miền Bắc đã đánh trả thắng lợi đòn tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ, lập nên trận ''Điện Biên Phủ trên không, chấn động địa cầu''.

Trước những thất bại nặng nề trên chiến trường, ngày 27/01/1973 tại Paris, đế quốc Mỹ buộc phải cúi đầu ký kết ''Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam'', cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; rút hết quân viễn chinh, quân chư hầu, rút hết cố vấn và nhân viên quân sự, phá bỏ các căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam; thừa nhận ở miền Nam Việt Nam có hai vùng, hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị; các bên Việt Nam cùng thành lập một chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam Việt Nam; nhân dân miền Nam sẽ thông qua tuyển cử để quyết định tương lai chính trị của mình; Mỹ có trách nhiệm đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh ở Việt Nam...

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng Nguyễn Duy Trinh ký Hiệp định Paris ngày 27-1-1973. Ảnh tư liệu

Hiệp định Paris được ký kết đánh dấu một thắng lợi hết sức to lớn và mở ra một bước ngoặt mới của cách mạng Việt Nam, đồng thời cho thấy sự phát triển vượt bậc về nghệ thuật lãnh đạo cách mạng của Đảng ta kể từ ngày ký Hiệp định Giơnevơ với thực dân Pháp (21/7/1954). Với Hiệp định Giơnevơ, mặc dù thắng lợi của chúng ta đạt được là rất lớn (giải phóng một nửa đất nước) nhưng đó là kết quả của sự sắp xếp, thoả thuận giữa các nước lớn (mặc dù chúng ta được mời đến tham gia hội nghị với tư cách là một dân tộc chiến thắng nhưng lại không được nắm quyền chủ động trên bàn đàm phán).

Chính vì hạn chế đó mà dân tộc ta phải trường chinh hơn 20 năm nữa mới giải phóng hoàn đất nước. Còn với Hiệp định Paris, chúng ta là người nắm quyền chủ động hoàn toàn trên bàn thương lượng với tư cách là người chiến thắng, nên tự mình quyết định được vận mệnh của dân tộc mình. Bởi thế, chỉ hơn hai năm sau chúng ta đã hoàn toàn thống nhất được đất nước. Vì vậy, Hiệp định Paris được ký kết đã tạo ra thời cơ chiến lược để cho quân và dân ta tiến lên giành thắng lợi cuối cùng, vì Mỹ đã ''cút'', nên “nguỵ nhào” chỉ còn là vấn đề thời gian.

Mùa xuân năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy của quân và dân ta giành được thắng lợi hoàn toàn, đã chứng minh cho thế giới thấy ''sức mạnh vô địch'' của Mỹ đến lúc này chỉ còn là một huyền thoại, từ đó, tâm lý sợ Mỹ, phục Mỹ của các dân tộc trên thế giới không còn như trước, mở ra một thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi, cổ vũ, thúc đẩy phong trào đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Sau hơn 20 năm gian khổ, ác liệt chống Mỹ cùng bè lũ tay sai của chúng, dân tộc ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành được thắng lợi trọn vẹn: Đất nước hoàn toàn độc lập và thống nhất. Để có được thành quả vĩ đại đó, một trong những nguyên nhân quan trọng là Đảng ta đã triệt để khai thác thời cơ chiến lược mà Hiệp định Paris đã tạo ra để đánh cho “ngụy nhào”, sau khi “Mỹ cút” như Bác Hồ kính yêu đã dạy. Chúng ta, thuộc thế hệ đi sau mãi mãi trân trọng và tôn vinh những thành tựu mà cha, anh đã tạo ra, trong đó có những người trực tiếp làm nên Hiệp định Paris lịch sử.

NH (theo https://www.phuyen.dcs.vn/)

 

Tác giả: Diepkinh

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây