Đồng chí Trường Chinh tham gia hoạt động cách mạng từ rất sớm, khi mới 18 tuổi. Cuộc đời hoạt động cách mạng của đồng chí Trường Chinh đã trải qua nhiều chông gai, vào tù ra tội, nhiều thăng trầm, kinh qua nhiều chức vụ của Đảng và Nhà nước, nhưng với bản lĩnh chính trị vững vàng, một chiến sĩ cộng sản kiên cường, một lòng vì Đảng, vì dân, đồng chí đã đem hết tài năng, tinh thần và nghị lực công hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
Những công hiến to lớn, tiêu biểu của đồng chí Trường Chinh cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân đó là: Sau chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, địch tăng cường khủng bố, hầu hết các ủy viên Trung ương bị bắt, bị giết, nhiều tổ chức đảng và quần chúng bị phá vỡ. Ban Chấp hành Trung ương lâm thời do Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 11/1940) cử ra chỉ còn lại 3 người. Với cương vị Quyền Tổng Bí thư giai đoạn cực kỳ khó khăn này, đồng chí đã cử cán bộ đi chắp nối liên lạc, khôi phục tổ chức, củng cố phong trào cách mạng; cử người sang Quảng Tây (Trung Quốc) liện hệ và đón lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5/1941), đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Sau Hội nghị, đồng chí rời Bắc Bó (Cao Bằng) về xuôi chỉ đạo phong trào, đề ra sáng kiến lập hệ thống liên hoàn các An toàn khu (ATK). Từ tháng 8/1941 đến tháng 9/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đi Trung Quốc và bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam, đồng chí Hoàng Văn Thụ bị địch bắt và xử bắn, đồng chí Hoàng Quốc Việt được cử đi công tác ở nước ngoài. Trách nhiệm to lớn của Đảng và cách mạng lúc này hầu như đặt lên vai một mình Tổng Bí thư Trường Chinh. Nhưng với trí tuệ thông minh, sắc sảo, khả năng ứng phó nhanh nhạy, đồng chí đã cùng với Trung ương có những quyết định quan trọng đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên những bước nhảy vọt. Nổi bật nhất là việc đồng chí dự báo việc Nhật - Pháp bắn nhau và sớm chủ trì Hội nghị Thường vụ Trung ương ra Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”. Chỉ thị đã chỉ rõ thời cơ đang đến và có tác dụng quyết định trong việc động viên, hướng dẫn toàn Đảng, toàn dân trong cao trào chống Nhật cứu nước. Tại Đại hội quốc dân ở Tân Trào, đồng chí được cử phụ trách Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc và ngày 13/8/1945, Ủy ban đã phát lệnh tổng khởi nghĩa và thu được thắng lợi nhanh chóng, đưa Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến thành công trên cả nước, thành lập ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, đồng chí Trường Chinh cùng tập thể Bộ Chính trị vạch ra đường lối và trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến giành thắng lợi to lớn, ghi dấu ấn đậm nét trong lịch sử dân tộc ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, với cương vị là Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đồng chí đã cùng tập thể Bộ Chính trị có những đóng góp to lớn vào việc chuẩn bị và đưa ra những quyết sách chiến lược, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước tới thắng lợi hoàn toàn. Trong giai đoạn cả nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, cống hiến đặc biệt quan trọng của đồng chí Trường Chinh (từ năm 1981 là Chủ tịch Hội đồng Nhà nước) là đặt nền móng và khởi xướng công cuộc đổi mới. Năm 1986, ở cương vị Tổng Bí thư, đồng chí đã sớm nhận rõ xu thế của thời đại, thực trạng của đất nước, yêu cầu và nguyện vọng của nhân dân và đề ra chủ trương đổi mới. Trong quá trình chuẩn bị Đại hội VI, đồng chí đã nói “Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn”. Vì vậy, Đại hội VI trở thành Đại hội đổi mới, đánh dấu một mốc son mới trong lịch sử cách mạng Việt Nam, một bước ngoặt trong tư duy lý luận của Đảng ta, trong đó có công to lớn của Tổng Bí thư Trường Chinh. Và chính đồng chí cũng là người tham mưu chính cho Đảng lựa chọn người cầm lái thực hiện xuất sắc công cuộc đổi mới - đó là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh.
Đồng chí Trường Chinh không những là nhà lý luận, văn hóa chiến lược của cách mạng Việt Nam mà còn là nhà báo nổi tiếng với nhiều bài báo sắc sảo, nhà thơ với bút danh Sóng Hồng và có gần 70 bài thơ nổi tiếng.
Trải qua 81 tuổi đời, 63 năm hoạt động cách mạng kiên cường và liên tục, Tổng Bí thư Trường Chinh đã nêu bật một tấm gương sáng chói và để lại cho chúng ta những bài học quý giá, đó là: Suốt đời hy sinh phấn đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân; không ngừng học tập và rèn luyện theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”; ý chí kiên cường cách mạng, tính nguyên tắc và tổ chức kỷ luật, tình cảm chân thành với đồng bào, đồng chí, tính khiêm tốn, giản dị trong cuộc sống hàng ngày, phong cách làm việc khoa học, cẩn thận, cụ thể đạt hiệu quả thiết thực; tinh thần dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng và nhân dân; trước những bước ngoặt lịch sử, phải đổi mới tư duy, trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng tình hình, đề ra chủ trương phù hợp, dựa vào nhân dân để làm nên thắng lợi.
Theo tuyengiao.phuyen.gov.vn
Ý kiến bạn đọc
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn