Tài liệu sinh hoạt chi đoàn Tháng 8/2022

Chủ nhật - 07/08/2022 00:03
Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn ban hành Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 8/2022. Đề nghị các Huyện, Thị, Thành Đoàn và Đoàn trực thuộc triển khai đến các cấp bộ Đoàn của đơn vị mình.
Tài liệu sinh hoạt chi đoàn Tháng 8/2022
Nội dung tải tại đây: /uploads/news/2022_08/tl-sinh-hoat-chi-doan-thang-8.2022.chinh.doc
Những ngày đáng nhớ trong tháng
8:

-------
- 1/8/1930: Ngày truyền thống ngành Tuyên giáo của Đảng
- 8/8/1921: Ngày sinh đồng chí Lê Quang Đạo
- 10/8/2004: Ngày vì nạn nhân chất độc màu da cam
- 19/8/1945: Ngày Cách mạng tháng Tám thành công
- 19/8/1945: Ngày thành lập Công an nhân dân Việt Nam
- 20/8/1888: Ngày sinh Chủ tịch Tôn Đức Thắng
- 25/8/1911: Ngày sinh Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- 8/1921: Ngày sinh đồng chí Võ Văn Tần
TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 92 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG
NGÀNH TUYÊN GIÁO CỦA ĐẢNG (01/8/1930 - 01/8/2022)
Ngành tuyên giáo của Đảng và chặng đường vẻ vang 92 năm qua
Với phương châm "Tuyên giáo đi trước, đi cùng," "hướng mạnh về cơ sở," 92 năm qua, ngành tuyên giáo đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng và đã đạt được những thành tựu quan trọng.
Cách đây tròn 92 năm, vào ngày 1/8/1930, nhân dịp kỷ niệm Ngày Quốc tế đấu tranh chống chiến tranh đế quốc, bảo vệ hòa bình, Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xuất bản tài liệu mang tên "Ngày Quốc tế đỏ 1-8." Đây là tài liệu duy nhất và sớm nhất còn lưu giữ đến nay đề rõ "Ban Cổ động và Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Việt Nam ấn hành."
Ngay sau khi phát hành, tài liệu đã tạo được tiếng vang lớn, thu hút sự quan tâm của đông đảo quần chúng nhân dân, có sức cổ vũ mạnh mẽ quần chúng cách mạng nước ta đứng lên đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chống áp bức, bóc lột, phản đối chiến tranh xâm lược, ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc. Từ đó, ngày 1/8 trở thành một mốc son lịch sử, đánh dấu một hoạt động rất có ý nghĩa đối với công tác tuyên giáo của Đảng.
Từ sự kiện lịch sử có ý nghĩa đặc biệt này, năm 2000, Bộ Chính trị (khóa VIII) quyết định lấy ngày 1/8 hằng năm làm Ngày truyền thống công tác tư tưởng-văn hóa của Đảng.
Năm 2007, sau khi hợp nhất Ban Tư tưởng-Văn hóa Trung ương và Ban Khoa giáo Trung ương thành Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) quyết định lấy ngày 1/8 hằng năm làm Ngày truyền thống ngành tuyên giáo của Đảng.
Bồi dưỡng và phát huy sức mạnh, giá trị con người Việt Nam
Nhìn lại chặng đường vẻ vang 92 năm qua (1/8/1930-1/8/2022), dù ở bất kỳ giai đoạn nào, trong bất cứ hoàn cảnh nào, đội ngũ những người làm công tác tuyên giáo của Đảng đều nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trước Đảng, đất nước và nhân dân, xứng đáng với sự tin cậy của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.
Công tác tuyên giáo đã tích cực góp phần vào đổi mới tư duy, nhất là đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tích cực tham gia nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, góp phần mở rộng dân chủ, khẳng định sự vận dụng sáng tạo, phù hợp chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, khơi dậy khát vọng dân tộc, xây dựng, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa tốt đẹp của con người Việt Nam, bảo đảm quốc phòng-an ninh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp phần quan trọng làm nên những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong 35 năm đổi mới, làm thay đổi sâu sắc diện mạo, cơ đồ, uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo tiền đề vững chắc để đưa đất nước ta tiếp tục tiến lên giành những thắng lợi ngày càng to lớn hơn.
Công tác tuyên giáo đã có đóng góp tích cực vào thành công của các sự kiện trọng đại của đất nước trong thời gian qua như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2021-2026…
Ngay sau Đại hội Đảng, Ban Tuyên giáo Trung ương đã tham mưu Ban Bí thư Trung ương tổ chức sớm hơn các nhiệm kỳ trước Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bằng hình thức trực tuyến với hơn một triệu cán bộ, đảng viên tham dự, đông nhất từ trước tới nay; tổ chức thành công Hội nghị trực tuyến toàn quốc sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”... Việc tham mưu tổ chức các hội nghị trực tuyến sớm, có nhiều đổi mới, mở rộng từ Trung ương tới cấp cơ sở nhận được sự đồng tình, ủng hộ và hoan nghênh của đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân, góp phần sớm đưa nghị quyết của Đảng và cuộc sống.
Toàn ngành đã huy động sức mạnh tổng hợp của các binh chủng trong công tác thông tin tuyên truyền để tạo sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận cao trong xã hội đối với các sự kiện lớn của đất nước cũng như các chủ trương, biện pháp phòng, chống đại dịch COVID-19; thực hiện “mục tiêu kép” của Chính phủ: vừa chống dịch COVID-19 có hiệu quả vừa phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội đạt kết quả tích cực....
Ngành tuyên truyền, tạo sức lan tỏa sâu rộng bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua đó, tiếp tục khẳng định mạnh mẽ mục tiêu, lý tưởng con đường mà Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
Toàn ngành tăng cường nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận xã hội; đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch; các chủ trương và biện pháp phòng, chống đại dịch COVID-19 và lập “Quỹ vaccine phòng COVID-19” được đánh giá hiệu quả; công tác khoa giáo được quan tâm chỉ đạo, đạt một số kết quả tích cực, nhất là trên lĩnh vực y tế đóng vai trò xung kích đi đầu phòng, chống đại dịch COVID-19...
Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng nhấn mạnh: "Với vai trò là một trong những bộ phận cơ bản, quan trọng của công tác xây dựng Đảng, là vũ khí sắc bén trong toàn bộ quá trình hoạt động của Đảng, công tác tuyên giáo đã góp phần xây dựng nền tảng chính trị của chế độ, nền tảng tinh thần của xã hội, hoạch định hệ thống quan điểm lý luận, cương lĩnh, đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam; giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật của người cộng sản, bồi dưỡng lý tưởng, tình cảm cách mạng cho đông đảo quần chúng nhân dân; tạo nên sức mạnh đoàn kết thống nhất của hệ thống tổ chức đảng từ Trung ương tới cơ sở; củng cố, bồi đắp niềm tin và mối quan hệ mật thiết giữa Nhân dân với Đảng, làm cho ý Đảng quyện với lòng dân; đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ, bảo vệ Nhân dân và những thành quả của cách mạng Việt Nam, góp phần xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, để Đảng thật sự là đạo đức, là văn minh, là người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân."
"Đi trước, mở đường” trong phòng, chống dịch COVID-19
Ngay từ khi dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam, ngành tuyên giáo đã phát huy vai trò tiên phong “đi trước mở đường," nhận định, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, kịp thời đề ra phương hướng lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp cấp bách, phù hợp với diễn biến dịch bệnh của từng giai đoạn và thực tiễn của đất nước, từ đó, góp phần tạo sự đồng thuận, sự tin tưởng, đoàn kết, ủng hộ của mọi người dân và toàn xã hội thích ứng linh hoạt, an toàn với đại dịch, phát triển kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới.

Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành nhiều công văn, kế hoạch, hướng dẫn, quán triệt sâu sắc và chỉ đạo, định hướng công tác thông tin, tuyên truyền phòng, chống dịch COVID-19 tới các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự đảng, đảng đoàn, các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương, các cơ quan báo chí, ban tuyên giáo các tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương và các tổ chức chính trị-xã hội, phù hợp với từng giai đoạn cụ thể như “thực hiện mục tiêu kép," “phát triển kinh tế-xã hội trong trạng thái bình thường mới," bảo đảm yêu cầu thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch bệnh đối với từng vùng, từng địa bàn, đặc điểm dân cư.
Công tác tuyên truyền được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, nhanh nhạy, linh hoạt đảm bảo mục tiêu truyền thông an dân, vì nhân dân để tạo ra sự bình ổn, đoàn kết thống nhất, cùng chung tay góp sức khắc phục khó khăn vượt qua đại dịch.
Các hình thức tuyên truyền đa dạng, phong phú như: tuyên truyền trên báo chí, trên nền tảng số, internet, cổng/trang thông tin điện tử các ban, bộ, ngành, địa phương và mạng xã hội (Facebook, Zalo, Youtube…) bằng hình thức livestream, video, clip, banner ảnh, infographics, biểu ngữ cổ động, tin nhắn…
Tuyên truyền qua hệ thống loa phát thanh cơ sở, đội truyền thông lưu động, loa tay, thông qua hội nghị, sinh hoạt chính trị-xã hội; chú trọng phát huy vai trò của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên cơ sở để tuyên truyền phòng, chống dịch sâu sát, cụ thể, “đi từng ngõ, gõ từng nhà”; nhắc nhở, vận động người dân vừa tuân thủ các biện pháp phòng, chống dịch, vừa tăng gia lao động, sản xuất, kinh doanh với tinh thần như thời chiến “vừa sản xuất, vừa chiến đấu."
Tuyên truyền, thông tin, cổ động trên các phương tiện trực quan: băngrôn, khẩu hiệu, pano, áp phích, phim, ảnh, triển lãm… trên các trục đường chính, chợ dân sinh, siêu thị, bệnh viện, tổ dân phố, khu chung cư, khu lao động, khu công nghiệp, chế xuất…; tuyên truyền thông qua các hoạt động văn hóa-văn nghệ, trên các ấn phẩm sách, tài liệu, tờ rơi, tờ gấp… tạo được sự an tâm đến với đông đảo người dân với các quyết sách của chính quyền các cấp về phòng, chống dịch.
Ngành tuyên giáo đã tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan liên quan, đặc biệt là ngành Y tế, kịp thời định hướng, tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân về tình hình, diễn biến dịch bệnh, các chủ trương, văn bản chỉ đạo của Trung ương, tỉnh, thành phố về công tác phòng chống dịch bệnh.
Điển hình là công tác phối hợp, phát huy vai trò của Tổ COVID-19 cộng đồng, tổ kiểm soát ở thôn, bản, tổ dân phố trong tham gia tuyên truyền phòng, chống dịch COVID-19 đã mang lại hiệu quả thiết thực. Hệ thống tuyên giáo cơ sở đã chủ động xây dựng các loại tài liệu, video clip, inforgraphic...; tận dụng hệ thống loa phát thanh của các phường, xã, trường học để thực hiện công tác tuyên truyền..., qua đó giúp nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân trong thực hiện nghiêm các quy định phòng, chống dịch, là cơ sở quan trọng để từng bước đẩy lùi dịch bệnh, tập trung phát triển kinh tế-xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Tạo động lực tinh thần mới
Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh vai trò, trách nhiệm của công tác tuyên giáo trước yêu cầu mới là: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước."
Để hoàn thành những trọng trách được giao, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng yêu cầu "mỗi cán bộ làm công tác tuyên giáo phải không ngừng nỗ lực rèn luyện, nâng cao trình độ lý luận, khả năng tư duy, phương pháp giải quyết các vấn đề tư tưởng. Đồng thời phải say mê với công việc của mình, "say mê mới cảm hóa được người khác, nâng cao khả năng thuyết phục và chỉ với trí tuệ, hiểu biết, phương pháp tốt thì chúng ta mới nâng cao được tính chiến đấu, tính khoa học, tính thuyết phục một cách hiệu quả."
Theo Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa, công tác tuyên giáo phải tập trung làm rõ, truyền tải những vấn đề về xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới, phát triển hội nhập với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và dân tộc, kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại. Chuẩn mực cơ bản của giá trị con người Việt Nam là yêu nước, đoàn kết, tự cường, nghĩa tình, trung thực, trách nhiệm, kỷ cương, sáng tạo, hài hòa với hệ giá trị gia đình Việt Nam là ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và văn minh, từ đó bồi đắp thêm là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Các hệ giá trị phải trên nền tảng giá trị quốc gia và cũng là mục tiêu phấn đấu cao cả của dân tộc là: hòa bình, thống nhất, độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, hạnh phúc...
Để thực hiện nhiệm vụ trọng tâm là bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, ông Nguyễn Trọng Nghĩa nêu rõ phải tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, đồng bộ, thống nhất trong nhận thức, trong hành động và trước hết là trong tổ chức Đảng, hệ thống chính trị và đội ngũ cán bộ, đảng viên.
“Quan điểm lãnh đạo của Đảng đã rất rõ ràng, đầy đủ, vấn đề là phải thực hiện thông suốt tới tận cơ sở, từng đảng viên và lan tỏa trong nhân dân. Chúng ta đã xác định được các lực lượng thực hiện nhiệm vụ, tạo thành thế trận toàn dân," ông Nguyễn Trọng Nghĩa nói và nhấn mạnh “trong năm 2022 phải tạo chuyển biến về văn hóa, ứng xử, thông tin trên không gian mạng."
Với phương châm "Tuyên giáo đi trước, đi cùng," "hướng mạnh về cơ sở," "toàn Ðảng làm công tác tư tưởng," 92 năm qua, ngành tuyên giáo đã không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng và đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần tạo sự thống nhất trong Ðảng và sự đồng thuận trong xã hội; tạo nên động lực tinh thần mới, góp phần cùng cả nước hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế-xã hội. Qua đó, niềm tin của nhân dân đối với Ðảng từng bước được củng cố, nâng cao; uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được khẳng định./.
Theo Quỳnh Hoa (TTXVN/Vietnam+)
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY CÁCH MẠNG THÁNG TÁM THÀNH CÔNG
(19/8/1945 - 19/8/2022)

Thắng lợi Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa là một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX, là mốc son chói lọi trong lịch sử ngàn năm của dân tộc.
Thắng lợi đó gắn liền với công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta, Người thầy vĩ đại của Cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với những quyết định lịch sử
Mùa thu năm 1945, cả dân tộc Việt Nam vùng lên lật đổ ách thống trị của phát xít Nhật, đánh đuổi thực dân Pháp, xóa bỏ chế độ phong kiến, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một trong những chiến công vĩ đại nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta, là bản hùng ca bất diệt trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Trong bản hùng ca ấy, không thể không kể đến vai trò lĩnh xướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã có những quyết định quan trọng, góp phần to lớn tạo nên thắng lợi của cách mạng mùa thu năm ấy, làm thay đổi vận mệnh nước nhà.
Quyết định đầu tiên có ý nghĩa vô cùng quan trọng chính là việc người thanh niên Nguyến Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước vào ngày 5/6/1911. Từ Bến cảng Nhà Rồng, với một quyết tâm cháy bỏng “nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, trải bao khó khăn, vất vả Người đã tiếp cận với Luận cương của V.I. Lênin, từ đó hình thành nên con đường cứu nước.
Quyết định quan trọng thứ hai của Chủ tịch Hồ Chí Minh là thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Sự ra đời của Đảng với hệ thống tổ chức chặt chẽ và cương lĩnh cách mạng đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỷ XX. Sự ra đời của Đảng là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính chất quyết định cho những bước phát triển trong tiến trình lịch sử cách mạng của dân tộc Việt Nam, được mở đầu bằng thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngay từ ngày mới thành lập "Đảng đã giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời, xé tan màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân vững bước tiến lên con đường thắng lợi trong cuộc cách mạng phản đế, phản phong".
Quyết định quan trọng tiếp theo của Chủ tịch Hồ Chí Minh là trở về nước vào ngày 28/1/1941 và chọn Cao Bằng là nơi xây dựng căn cứ cách mạng. Ở đây, Người và các đồng chí bắt tay vào công tác vận động, tập hợp và tổ chức lực lượng quần chúng.
Sau thời gian xây dựng thí điểm các đoàn thể cứu quốc, Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh ngày 19/5/1941. Đây là quyết định về tổ chức có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cách mạng Việt Nam lúc này. Cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là sự phát triển mạnh mẽ của các đoàn thể trong mặt trận, như: Nông dân cứu quốc, Công nhân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nhi đồng cứu quốc… Dưới ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, mọi tầng lớp nhân dân yêu nước được tập hợp đoàn kết tham gia phong trào đứng lên đánh đổ thực dân xâm lược giành độc lập tự do. Có thể nói, sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là yếu tố quyết định cho thắng lợi Cách mạng tháng Tám.
Song song với việc thành lập Mặt trận Việt Minh, để làm cơ sở và nòng cốt cho đấu tranh chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho xây dựng lực lượng vũ trang mà đầu tiên là thành lập đội vũ trang Cao Bằng, làm nhiệm vụ bảo vệ căn cứ cách mạng, huấn luyện chính trị quân sự cho các đội tự vệ, dân quân du kích địa phương, hậu thuẫn cho các cuộc đấu tranh của quần chúng. Đến tháng 12/1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và giao cho đồng chí Võ Nguyên Giáp phụ trách. Ngay sau khi thành lập đội đã gây được tiếng vang lớn với chiến thắng diệt gọn 2 đồn địch ở Phay Khắt và Nà Ngần. Uy tín của đội lan tỏa khắp cả nước và nhiều địa phương cũng đã chủ động thành lập các đội vũ trang. Lực lượng vũ trang không ngừng lớn mạnh đã tạo điều kiện vô cùng quan trọng cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám.
Với sự chuẩn bị kỹ lưỡng về căn cứ cách mạng, tổ chức chính trị, lực lượng cách mạng đặc biệt là đội quân vũ trang tinh nhuệ, cùng với yếu tố thuận lợi về thời cơ cách mạng, quân và dân ta đồng loạt đứng dậy tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền.
Theo đó, từ ngày 13 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định Tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân đồng minh vào Đông Dương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định “Lúc này, thời cơ thắng lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Ngay trong đêm ngày 13/8/1945, Ủy ban khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1, phát lệnh tổng khởi nghĩa. Ngày 16 và 17/8/1945, Quốc dân Đại hội họp tại Tân Trào tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng do Người làm Chủ tịch. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Cuộc Tổng khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu biểu là các cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (19/8), Huế (23/8), Sài Gòn (25/8). Đặc biệt, ngày 19/8/1945, khởi nghĩa thắng lợi ở Hà Nội gây tiếng vang lớn trong cả nước. Cuộc khởi nghĩa nổ ra thắng lợi ở Hà Nội đã góp phần làm tan rã nhanh chóng toàn bộ hệ thống bộ máy chính quyền tay sai của Nhật trong cả nước. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, 25 triệu đồng bào ta, với tinh thần "đem sức ta mà giải phóng cho ta" đã nhất tề vùng lên giành chính quyền trong 15 ngày, từ 13 đến 28/8/1945. Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân.
Ngày 2/9/1945 tại quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn người dân nước Việt, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, mở ra một kỷ nguyên mới, đó là kỷ nguyên của độc lập, tự do, tạo thế và lực cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam trong thời đại mới.
Biểu tượng sức mạnh dân tộc và tinh thần thời đại
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Trước hết đã chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân tiến hành Cách mạng tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Sau này, Đảng ta đã tiếp tục lãnh đạo nhân dân đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc nền độc lập của Tổ quốc.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là hội tụ của ý chí độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; là thắng lợi vĩ đại của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được Đảng ta vận dụng một cách sáng tạo để “lựa tình thế, chọn thời cơ”, đưa ra những quyết sách đúng đắn, sáng tạo ở tầm chiến lược. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 cũng chứng minh rằng, một dân tộc dù nhỏ bé nhưng nếu có truyền thống nồng nàn yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, thông minh, sáng tạo dưới sự lãnh đạo của đảng cách mạng chân chính thì vẫn có thể làm nên những sự kiện vĩ đại có tầm vóc và đi vào lịch sử của dân tộc và thế giới.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 là động lực mạnh mẽ cổ vũ toàn thể dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất tiếp tục sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đưa nước ta phát triển để có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày hôm nay.
Không chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với dân tộc Việt Nam, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 đã cổ vũ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức chống ách nô dịch của chủ nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ tan rã của chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới. Đánh giá ý nghĩa lịch sử của Cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc".
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh về giải phóng dân tộc mà ý nghĩa của những tư tưởng đó vẫn còn giá trị lâu dài. Nhiều bài học kinh nghiệm trong Cách mạng tháng Tám của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh có thể vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Đó là bài học về chớp thời cơ và tận dụng thời cơ để giành thắng lợi. Bài học về tập hợp, đoàn kết, lôi cuốn toàn dân tham gia sự nghiệp cách mạng, tham gia sự nghiệp xây dựng đất nước; nâng cao ý thức tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của dân tộc, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế. Bài học về xây dựng và củng cố nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng đất nước Việt Nam: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…
Trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 đang diễn biến phức tạp hiện nay, việc áp dụng các bài học trên, nhất là bài học về phát huy tinh thần đại đoàn kết, yêu thương đùm bọc lẫn nhau… sẽ tạo nên sức mạnh to lớn, góp phần giúp chúng ta đẩy lùi dịch bệnh.
Đã 77 năm trôi qua nhưng thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 vẫn là một sự kiện diệu kỳ trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Diễn ra và giành thắng lợi trong một thời gian ngắn, nhưng Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã để lại nhiều bài học quý báu cho Đảng và nhân dân ta trong hành trình hướng đến tương lai.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 - khơi gợi những giá trị linh thiêng
Kể từ cuộc Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ vĩ đại đã lập nên biết bao kỳ tích có tính thời đại, từ một vong quốc nô bước lên vũ đài của những dân tộc có quyền tự quyết, là tấm gương soi sáng, cổ vũ các dân tộc bị áp bức, đô hộ vùng lên giành quyền độc lập, tự do...
Đó là một bước tiến dài của lịch sử Việt Nam, góp phần đáng kể vào xoay chuyển xu hướng thời đại ở nửa cuối thế kỷ XX: Thời đại thức tỉnh lương tri nhân loại, thời đại khẳng định giá trị sống bao trùm “Không có gì quí hơn độc lập, tự do”.
Để phấn đấu đạt được và chứng minh cho chân lý Dân tộc Việt Nam có quyền hưởng độc lập, tự do, đồng bào ta đã phải trải qua hơn 80 năm quằn quại trong xiềng xích thực dân, phát xít, đổ biết bao nhiêu xương máu trong những cuộc khởi nghĩa. Từ nửa cuối thế kỷ XIX, phong trào Cần Vương và nhiều cuộc khởi nghĩa khác đã cho thấy ngọn lửa yêu nước của dân tộc Việt Nam không bao giờ nguội tắt, song chỉ vì thiếu một hệ tư tưởng cứu nước đúng đắn, phù hợp xu thế thời đại, nên chưa có lối ra cho lịch sử cứu nước. Con đường của chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh dù rất mới, nhưng cũng không mang lại tương lai cho Xứ An Nam đau thương. Phải chờ đến khi Nguyễn Ái Quốc tiếp cận được và nhận diện đúng ánh sáng thời đại qua Luận cương của Lênin-đó mới là ánh sáng cuối đường hầm cho lịch sử Việt Nam ở thế kỷ XX.
Sau khi thấy được con đường giải phóng cho đồng bào mình, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục trải nghiệm trong phong trào cộng sản quốc tế, trước hết là tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp, đứng về Quốc tế cộng sản, chuẩn bị các điều kiện quan trọng để tiến tới sáng lập chính đảng vô sản ở Việt Nam. Việc chuẩn bị trực tiếp và có ý nghĩa sâu sắc nhất của Nguyễn Ái Quốc là vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin để xây dựng một hệ tư tưởng lý luận cách mạng phù hợp với điều kiện lịch sử của Việt Nam. Tác phẩm Đường Kách mệnh là luồng ánh sáng mới, định vị đúng hướng tư tưởng cứu nước của Việt Nam trong thời đại đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền với giải phóng dân tộc: Thời đại giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
Tháng 2 năm 1930, nơi xứ người, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái Quốc (với tư cách đại diện Quốc tế cộng sản ở Phương Đông) đã cùng những người ưu tú nhất, đại diện cho các tổ chức cộng sản trong phong trào cách mạng Việt Nam đã họp với nhau để bàn và đi đến thống nhất một việc vô cùng hệ trọng: Thống nhất lực lượng các tổ chức cộng sản thành một tổ chức đảng duy nhất, lấy tên là Đảng cộng sản Việt Nam. Các văn kiện đầu tiên của Đảng được đích thân Nguyễn Ái Quốc khởi thảo, trong đó thể hiện rất rõ những giá trị tư tưởng cốt lõi mà mãi tới nay vẫn luôn đúng, đó là: Đảng ra đời và tồn tại vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp; Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng; Đảng tập hợp, giác ngộ quần chúng yêu nước đi theo cách mạng; trong nước thì đoàn kết các giai tầng, ngoài nước thì liên minh với các lực lượng tiến bộ; sau khi giành được độc lập dân tộc thì sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Như vậy, ngay khi mới ra đời, Đảng ta đã hướng đến sự thống nhất, đoàn kết, có đường lối chiến lược đi trước thời đại, tránh được khuynh hướng chia rẽ, phân liệt mà phong trào cộng sản quốc tế đang vướng phải; tránh được khuynh hướng phi mác xít. 
Trải qua 15 năm tôi rèn trong phong trào đấu tranh cách mạng sinh tử với thực dân, phát xít, Đảng ta mau chóng trưởng thành, khẳng định là lực lượng tiên phong, nắm vai trò dẫn dắt lịch sử dân tộc bằng đường lối chiến lược đúng đắn, có khả năng tập hợp, vận động, giác ngộ, thu hút quần chúng đi theo cách mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin trở thành dòng chủ lưu trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam, bất chấp có nhiều luồng tư tưởng phi mác xít pha tạp, bất chấp sự tra tấn, khủng bố dã man của kẻ thù, nhiều tấm gương chiến sĩ cộng sản đã biến nhà tù thành trường học cộng sản, nền tảng tư tưởng của Đảng được tô son bằng máu của bao chiến sĩ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng chính là bảo vệ vững chắc chiếc la bàn cho phong trào cách mạng khỏi bị chệch hướng.
Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm 1945 diễn ra trong vòng 2 tuần lễ đã giành được thắng lợi toàn quốc, có những nơi chỉ trong một ngày, có những nơi lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương chưa về tới nơi, song cấp ủy địa phương đã chủ động lãnh đạo nhân dân vùng lên cướp chính quyền. Có những ý kiến cho rằng, cách mạng tháng 8 năm 1945 của Việt Nam là sự ăn may, không có vai trò của Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh (!), đó là một sự bóp méo lịch sử. Bởi, nếu như không có phong trào cách mạng năm 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ - Tĩnh, đến phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương, Phong trào kháng Nhật cứu quốc thì quần chúng cách mạng đâu có được sự giác ngộ, sẵn sàng vùng lên cứu nước như vậy. Quần chúng chỉ có thể đứng lên theo lực lượng lãnh đạo mà họ tin tưởng nhất, kỳ vọng nhất, chính là vì trong mọi đường lối chiến lược, sách lược của Đảng cộng sản Việt Nam đều nhất quán một mục tiêu tối thượng là tranh đấu giành lại độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho Nhân dân. Không sức mạnh của kẻ thù hung bạo nào có thể khuất phục được tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân, khi mà họ được nung nấu lòng yêu nước và thắp sáng niềm tin tới tương lai tươi sáng.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới về quyền tự quyết dân tộc. Mở đầu bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh trích dẫn tinh thần bất hủ trong Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và nước Pháp về quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc, quyền bình đẳng của con người; lên án thực dân Pháp, Phát xít Nhật đã tước đoạt những quyền cơ bản ấy của Nhân dân Việt Nam; khẳng định Việt Nam đã tự giành lại những quyền bất khả xâm phạm đó bằng máu xương của mình. Kết lại bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh thể hiện tinh thần cách mạng, tỏ rõ lời thề lịch sử, hội đủ sức mạnh mấy ngàn năm giữ nước của dân tộc Việt Nam để đinh ninh lời thề độc lập: Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ cho được quyền tự do, độc lập ấy. Lời thề ấy là động lực tinh thần theo suốt cuộc trường chinh vệ quốc của dân tộc Việt Nam trong 30 năm, đủ sức đánh bại những đế quốc đầu sỏ, góp phần thức tỉnh lương tri và gìn giữ phẩm giá nhân loại. Lời thề ấy cũng đã được Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhân dân của mình tự tin vững bước qua 35 năm đổi mới, dựng xây cơ đồ tươi mới, tạo lập vị thế và uy tín mới, hướng tới tương lai tươi sáng, từng bước sánh vai cùng các cường quốc năm châu.
Như vậy, giá trị của một dân tộc không phải ở chỗ có vũ khí tối tân, có nhiều tiền của hay dân số đông và lãnh thổ rộng lớn, mà giá trị đích thực ở lòng nhân ái, trí tuệ, tinh thần, khát vọng của toàn dân, được chính đảng của họ kết nối, hội tụ nhân tâm, khích lệ, cổ vũ, soi sáng. Đó là những giá trị sống của Việt Nam đã và ngày càng lan tỏa trong nhân tâm và lương tri nhân loại, như những giá trị văn hóa biết làm người sống nhân nghĩa, luôn thắp sáng ngọn lửa tự tôn dân tộc. Cách mạng tháng 8 năm 1945 đã khởi nguồn cho những giá trị cao đẹp đó, Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chí Minh đã thắp lửa thiêng ấy trên đài sen dân tộc; và trên hết, Nhân dân Việt Nam luôn thể hiện tinh thần một dân tộc chưa bao giờ chịu cúi đầu cam chịu kiếp đời nô lệ. Có Đảng, có Bác Hồ và có Nhân dân gắn bó máu thịt trong tâm thức, nhận thức và hành động luôn là thể thống nhất, dân tộc ta ắt là người chiến thắng./.
Theo https://baotintuc.vn/
KỶ NIỆM 77 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG CÔNG AN NHÂN DÂN (CAND) VIỆT NAM (19/8/1945 – 19/8/2022)

Công an nhân dân (CAND) Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng và Nhà nước; lực lượng làm nòng cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội; tham mưu cho Đảng, Nhà nước về bảo vệ an ninh Tổ quốc và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội;… Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành những tình cảm đặc biệt và sự lãnh đạo thường xuyên, sâu sát, cụ thể đối với CAND.
1. Bác Hồ chăm lo xây dựng Công an nhân dân Việt Nam
Trong quá trình chăm lo xây dựng CAND Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến bản chất giai cấp công nhân, yếu tố cốt lõi của CAND. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, chiến sĩ và toàn lực lượng CAND phải đặt lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc lên trên hết, lên trước hết, CAND phải được đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt của Đảng, phải phục tùng đường lối, chính sách của Đảng. Người dạy: “Công an cách mạng là một vũ khí sắc bén của chuyên chính vô sản”(1), “công an phải bảo vệ dân chủ của nhân dân và thực hiện chuyên chính với những kẻ chống lại dân chủ của nhân dân”(2).
Hoạt động của lực lượng công an phải luôn nhận rõ sự phục tùng lãnh đạo của Đảng “Công tác công an phải gắn chặt với đường lối chính trị của Đảng. Nếu thoát ly đường lối chính trị của Đảng, thì dù khéo mấy cũng không kết quả”(3). Do đó, từ khi được thành lập đến nay, CAND Việt Nam luôn mang trong mình bản chất giai cấp công nhân, thực sự là đội quân tiên phong, nòng cốt trong đấu tranh chống phản cách mạng, chống gián điệp, phản động, phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh, trật tự, bảo vệ Đảng, chế độ, chính quyền cách mạng và bảo vệ nhân dân.
Về tính nhân dân của Công an, Người chỉ rõ Công an Việt Nam là Công an nhân dân, dựa vào nhân dân để công tác, chiến đấu và vì nhân dân phục vụ; coi đây là yếu tố quyết định, cội nguồn sức mạnh của CAND và sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự. “Công an phải là đầy tớ dân. Đã là đầy tớ dân thì Công an phải ra sức bảo vệ nhân dân, ra sức phục vụ nhân dân”(4).
Người đã dạy CAND 6 Điều về “Tư cách người Công an cách mệnh là:
Đối với tự mình, phải: CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH.
Đối với đồng sự, phải: THÂN ÁI, GIÚP ĐỠ.
Đối với chính phủ, phải: TUYỆT ĐỐI TRUNG THÀNH
Đối với nhân dân, phải: KÍNH TRỌNG, LỄ PHÉP.
Đối với công việc, phải: TẬN TỤY
Đối với địch, phải: CƯƠNG QUYẾT, KHÔN KHÉO”(5).
Năm 1951 khi đến thăm, nói chuyện tại Trường Trung cấp Công an khóa II, Người nhấn mạnh sự khác biệt lớn nhất của CAND với công an đế quốc: “Công an nhân dân hoàn toàn khác công an đế quốc. Công an đế quốc là nanh vuốt của đế quốc để hà hiếp áp bức đa số nhân dân... Công an nhân dân phải là kiểu mẫu, phải là người chuyên trách thi hành chính sách, phương châm của Đảng và Chính phủ cho tốt. Công an nhân dân phải thực sự phục vụ nhân dân”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu CAND phải gần dân, vì dân, kính trọng, lễ phép với nhân dân, lấy sự tin yêu của nhân dân để đánh giá chất lượng, hiệu quả công việc. Do đó, CAND phải nhận thức rõ sức mạnh và vai trò của nhân dân đối với công tác công an, phải làm sao cho nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự cũng là nhiệm vụ của toàn dân. Người chỉ rõ: “... Công an có bao nhiêu người? Dù có vài ba nghìn hay năm bảy vạn đi nữa thì lực lượng ấy vẫn còn ít lắm bên cạnh lực lượng nhân dân. Năm vạn người thì chỉ có năm vạn cặp mắt, năm vạn đôi bàn tay. Phải làm sao để có hàng chục triệu đôi bàn tay, hàng chục triệu cặp mắt và đôi tai mới được. Muốn như vậy, phải dựa vào dân, không được xa rời dân. Nếu không thế thì sẽ thất bại. Khi nhân dân giúp đỡ ta nhiều thì thành công nhiều, giúp đỡ ta ít thì thành công ít, giúp đỡ ta hoàn toàn thì thắng lợi hoàn toàn”(7).
Cùng với việc xác định bản chất, đặc tính của CAND, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là Người dày công xây dựng tổ chức bộ máy CAND. Nguồn gốc của lực lượng CAND Việt Nam bắt đầu từ các đội Tự vệ đỏ trong phong trào Xô viết Nghệ - Tĩnh (1930-1931), các đội danh dự trừ gian, Hộ lương diệt ác... do Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập với mục đích bảo vệ tổ chức. Những năm 1930-1945, để chống các hoạt động phá hoại và do thám của thực dân Pháp và chính quyền tay sai, bảo vệ cách mạng, Đảng Cộng sản Đông Dương đã thành lập các đội: Tự vệ đỏ, Tự vệ công nông, Danh dự trừ gian, Danh dự Việt Minh. Đó là những tổ chức tiền thân của CAND và QĐND sau này.
Sau cách mạng tháng Tám thành công (tháng 8-1945), chính quyền lâm thời của Việt Minh chỉ thị thành lập một lực lượng vũ trang có nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự. Tuy nhiên, lực lượng này chưa có tên gọi chung mà mang nhiều tên gọi khác nhau, như Sở Liêm phóng (ở Bắc bộ), Sở Trinh sát (ở Trung bộ) và Quốc gia tự vệ cuộc (ở Nam bộ). Đến ngày 21-2-1946, Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 23/SL, thống nhất các lực lượng này thành Việt Nam Công an vụ, do ông Lê Giản làm Giám đốc. Ngày 19-8 hằng năm được lấy làm ngày Truyền thống của CAND Việt Nam và được quy định là “Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”.
Cùng với việc xây dựng CAND về tổ chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt quan tâm xây dựng đạo đức, tư cách người Công an cách mạng, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, thường xuyên thực hành, nêu gương về đạo đức, lối sống, nói đi đôi với làm và phải tu dưỡng đạo đức suốt đời như đã nêu trong 6 điều Bác Hồ dạy CAND về tư cách người công an cách mệnh. Lực lượng CAND được tôi luyện qua các thời kỳ cách mạng đã trở thành đội ngũ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, “chỉ biết còn Đảng thì còn mình”, trung thành vô hạn với lý tưởng, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân.
Người căn dặn lực lượng CAND, trong công tác, chiến đấu phải luôn ghi nhớ, giữ vững và thực hiện nghiêm các nguyên tắc, phương pháp, biện pháp công tác là, “Đối với địch, phải cương quyết, khôn khéo”(8); Chủ động phòng ngừa, tích cực tiến công; “cảnh giác giữ bí mật”(9); “Đánh địch phải đánh cho đúng, như “đánh rắn phải đánh dập đầu”; “phải hết sức cẩn thận và khôn khéo, nghiêm khắc với kẻ ngoan cố, đối với người thật sự cải tạo thì khoan hồng”(10); phải sử dụng thành thục, chính xác các phương tiện kỹ thuật... Đây chính là những chỉ dẫn quan trọng, làm cơ sở hình thành, bổ sung, hoàn thiện lý luận nghiệp vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
2. Công dân nhân dân làm theo lời Bác
Với sự quan tâm, chỉ dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sự lãnh đạo, của Đảng, Nhà nước, sự tin yêu, giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân, lực lượng CAND không ngừng trưởng thành, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, vững vàng về pháp luật, sắc bén về nghiệp vụ và đã có những đóng góp đặc biệt quan trọng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của dân tộc.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, lực lượng Công an đều thấm sâu và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy, thi đua lập công, chấp nhận hy sinh, gian khổ cùng với các lực lượng cách mạng, nhất là Quân đội nhân dân và nhân dân cả nước, đi đến thắng lợi cuối cùng trong cuộc kháng chiến với đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, xây dựng hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng CAND miền Bắc và An ninh miền Nam, với lòng yêu nước và ý chí cách mạng tiến công không ngừng, với niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt sâu sắc Sáu điều Bác Hồ dạy, đoàn kết, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng vũ trang nhân dân; gắn bó máu thịt, dựa vào nhân dân, mưu trí, dũng cảm trong công tác, chiến đấu, vượt qua những khó khăn, thách thức khắc nghiệt, đau thương mất mát vô cùng to lớn, góp phần  quan trọng tạo thành sức mạnh tổng hợp, đưa cách mạng Việt Nam giành thắng lợi vẻ vang, thống nhất đất nước vào ngày 30/4/1975.
Trong công cuộc đổi mới, trước những thách thức không kém phần cam go, quyết liệt với công tác bảo đảm an ninh, trật tự, với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; việc quán triệt, thực hiện "Sáu điều Bác Hồ dạy CAND" tiếp tục là điểm nhấn, điều kiện quan trọng, quyết định giúp cho CAND Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng, vẻ vang của lớp lớp cha anh đi trước, tuyệt đối trung thành; luôn đặt mình dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, thực sự là con em yêu quý của nhân dân, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ; hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội; góp phần quan trọng vào thành công của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
*.       *
 *
 Lực lượng CAND Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện; là lực lượng của Nhân dân, từ Nhân dân mà ra, vì Nhân dân mà phục vụ, mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Trải qua 76 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hy sinh, lực lượng CAND luôn khẳng định sự tận trung với Đảng, tận hiếu với dân, đoàn kết, thống nhất, lập được nhiều chiến công, thành tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, Nhà nước, Tổ quốc, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa.
 ------------------------------
(1)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 14, tr. 71, 71-72.
(2)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 14, tr 71-72.
(3)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 15, tr. 140
(4)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 5, tr. 498.
(5)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 5, tr. 498.
(6)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 7, tr. 269.
(7)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 7, tr. 269, 270.
(8)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 5, tr. 499.
(9)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 12, tr 638.
(10)Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H, 2011, T. 10, tr. 259.
Theo TS Minh Dương – Ths Duy Tiến Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Phương pháp luận Hồ Chí Minh với phát triển bền vững đất nước
Hồ Chí Minh không chỉ để lại cho Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam di sản về tư tưởng, đạo đức, phong cách mà có cả một hệ thống phương pháp luận cách mạng đặc sắc. Hệ thống phương pháp luận Hồ Chí Minh có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với công cuộc đổi mới và phát triển bền vững đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, tiêu biểu nhất của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Từ người Việt Nam yêu nước chân chính trở thành chiến sĩ cộng sản quốc tế vĩ đại, Hồ Chí Minh là người đầu tiên thấy được vai trò lãnh đạo của giai cấp vô sản Việt Nam, đem ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường cho cách mạng Việt Nam. Nhờ nắm vững những đặc điểm và quy luật của thời đại, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, nên đóng góp lớn nhất của Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam và sự phát triển của cách mạng thế giới là đã tìm và xác định được một con đường cách mạng, một hướng đi và tiếp theo đó là một phương pháp để thức tỉnh hàng triệu triệu con người bị áp bức trong các nước thuộc địa và lạc hậu những năm đầu thế kỷ XX.
Đường lối quyết định phương pháp, đồng thời, phương pháp trở thành một trong những yếu tố đảm bảo cho đường lối thành công. Vì vậy, phương pháp luận Hồ Chí Minh là phương pháp luận cách mạng. Nguồn gốc chủ yếu của phương pháp luận đó là từ chủ nghĩa Mác - Lênin, “được Hồ Chí Minh tiếp thu, đã có sự bổ sung, phát triển mang những đặc trưng mới, độc đáo của Hồ Chí Minh trên cơ sở kết hợp những nguyên tắc phương pháp luận Mác-Lênin với những nhân tố duy vật biện chứng của triết học phương Đông, của tư duy truyền thống Việt Nam và rút ra từ cuộc đời hoạt động phong phú, đầy biến cố và những kinh nghiệm ứng nhân xử thế của Người”(1), nhằm giải quyết những vấn đề do thực tiễn Việt Nam, thế giới lúc bấy giờ đặt ra cho chính Người và cho cách mạng Việt Nam. Có thể khẳng định, những thành tựu mà Đảng và dân tộc Việt Nam đạt được trong thời gian qua còn gắn liền với phương pháp luận Hồ Chí Minh. Đó là chỉnh thể của sự thống nhất giữa tư tưởng với phương pháp và đạo đức, phong cách; giữa nhận thức và hành động của Người. Do đó, để tiếp tục có những bước chuyển đột phá trong công cuộc đổi mới, phát triển bền vững đất nước hiện nay thì việc trở lại nghiên cứu phương pháp luận Hồ Chí Minh và vận dụng vào thực tiễn để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tiến trình cách mạng Việt Nam là sự lựa chọn có ý nghĩa sâu sắc.
NỘI DUNG PHƯƠNG PHÁP LUẬN HỒ CHÍ MINH
Một là, từ yêu cầu thực tiễn của Tổ quốc, của dân tộc Việt Nam về độc lập, tự do và ấm no, hạnh phúc mà hành động cách mạng. Trong bối cảnh nước mất nhà tan, nhân dân chịu cảnh lầm than, nô lệ, Nguyễn Tất Thành - Hồ Chí Minh ra đi và tranh đấu, lấy mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, hạnh phúc của đồng bào làm chuẩn mực hành vi, thước đo của hoạt động, tiêu chuẩn của chân lý. Cũng từ mục tiêu cao cả và nhất quán đó, Người đã xử lý, giải quyết vô cùng khéo léo, hài hoà nhiều mối quan hệ. Tiêu biểu là các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa dân tộc và quốc tế, giữa nội lực và ngoại lực, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa nhân vǎn.                
Hai là, kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn, thống nhất hữu cơ giữa lý luận và thực tiễn. Hồ Chí Minh tiếp cận với nhiều hệ tư tưởng, nhiều học thuyết và rút ra những giá trị tốt đẹp, tích cực, tiến bộ, chân chính của mỗi hệ tư tưởng, mỗi học thuyết. Theo Người, học chủ nghĩa Mác - Lênin cốt nắm lấy tinh thần, bản chất và phương pháp để xử lý, giải quyết một cách độc lập, tự chủ, sáng tạo mọi quan hệ với con người và công việc.
Ba là, nhạy bén nắm bắt, thấu hiểu, tôn trọng quy luật khách quan để hành động phù hợp, đúng đắn và đi đến thành công. Hồ Chí Minh luôn quan tâm và coi trọng quy luật vận động khách quan của mọi việc, từ sự phát triển của thế giới, trong nước đến nhiều lĩnh vực. Người yêu cầu phải nắm vững quy luật phát triển của cách mạng, phải tính toán cẩn thận những điều kiện cụ thể, những biện pháp cụ thể, kế hoạch phải chắc chắn, chớ đem chủ quan của mình thay cho điều kiện thực tế...
Bốn là, giữ vững nguyên tắc chiến lược kết hợp với mềm dẻo trong sách lược, linh hoạt về phương pháp.Hồ Chí Minh sáng tạo và thực hành đầy bản lĩnh phương pháp cách mạng “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Chiến lược một khi đã được xác định đúng còn phải có sách lược mềm dẻo, sát hợp. Người chủ trương phải thực hành tốt một số vấn đề: Khoa học kết hợp với nghệ thuật trong việc tạo thời cơ, chớp lấy thời cơ; “Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ, kiên quyết không ngừng thế tiến công”; “Biến đại sự thành tiểu sự, biến tiểu sự thành vô sự”; “Thế và lực trong cách mạng và trong phát triển là ở Đại Đoàn kết”,…
Năm là, nhân dân là lực lượng quý nhất, mạnh nhất, phải luôn dựa vào dân, phục vụ nhân dân.Theo Hồ Chí Minh, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, đấu tranh giành, bảo vệ độc lập tự do và xây dựng chủ nghĩa xã hội đều do nhân dân thực hiện dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, tất cả mọi nhận thức và hành động phải xuất phát từ dân, từ ý chí, nguyện vọng của dân, vì lợi ích của dân. Trong diễn đạt, nói và viết sao cho giản dị, rõ ràng, chính xác cốt để quần chúng hiểu ngay, hiểu đúng và làm được, làm tốt, làm mau.
Sáu là, cán bộ là gốc, quyết định sự thành bại của mọi công việc,phải dùng cán bộ đúng và khéo. Để cán bộ thực sự là gốc của mọi công việc thì phải đào tạo, huấn luyện cán bộ sao cho đáp ứng yêu cầu tiêu chuẩn cán bộ trong từng thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Phải ra sức rèn luyện cán bộ trong đấu tranh, cán bộ phải hết lòng vì dân, vì nước, diệt trừ chủ nghĩa cá nhân, trau dồi đạo đức cách mạng… Phải phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng nhân tài qua thực tiễn và qua sự tín nhiệm của quần chúng, nhân dân.
Bảy là, quan điểm về phát triển, đổi mới và hướng về cái mới. Hồ Chí Minh có quan niệm đổi mới từ rất sớm, từ khi Đảng chưa ra đời. Hành động sang phương Tây tìm đường cứu nước của Người là bước đánh dấu đầu tiên cho sự đổi mới không chỉ nhận thức mà cả hành động; từ tư duy đến lý luận và thực tiễn. Đổi mới thực sự từ hành động, bằng hành động, thực hiện được các mục tiêu, mục đích: chống giặc ngoại xâm, đánh bại giặc nội xâm, giành lấy hệ giá trị: Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Đổi mới gắn liền với phát triển, từ độc lập dân tộc tới chủ nghĩa xã hội, một xã hội giàu mạnh, văn minh, hiện đại và gắn liền với hệ giá trị Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
VẬN DỤNG TRONG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã trải qua gần 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó có 10 năm thực hiện Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020. Ðại hội lần thứ XIII của Ðảng là dấu mốc quan trọng, có ý nghĩa định hướng tương lai, mang khát vọng và tầm nhìn đưa nước ta trở thành một nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ.
Trước vận hội mới, cơ đồ mới của đất nước và dân tộc, càng thấm nhuần sâu sắc những di huấn của Hồ Chí Minh về việc vận dụng một số phương pháp luận sau:
Thứ nhất, có tư duy độc lập, sáng tạo; gắn đổi mới với phát triển bền vững đất nước. Trong Bài nói chuyện về Bản Tổng cương và Điều lệ của Đảng năm 1950, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng. Ví dụ đại đoàn kết”(2). Vì vậy, giáo điều và câu nệ sách vở là xa lạ với bản chất độc lập sáng tạo của tư duy và tư tưởng, phương pháp luận Hồ Chí Minh. 
Nhìn lại 90 năm xây dựng và phát triển, nhờ có sự nhạy bén, sáng suốt, đổi mới tư duy, Đảng đã giành chính quyền từ tay phát-xít Nhật trong Cách mạng Tháng Tám. Nhờ có tư duy sáng suốt mà nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã giành thắng lợi to lớn ở Điện Biên Phủ vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Nhờ có tư duy sáng tạo: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” mà Đảng đã hình thành chiến lược để làm nên mùa Xuân đại thắng năm 1975. Có rất nhiều những mốc son chói lọi ghi dấu ấn xuất phát từ đổi mới tư duy của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng.
Ra khỏi cuộc chiến tranh, đất nước Việt Nam bị cấm vận tứ bề, kinh tế chậm phát triển, nhân dân đói, nghèo, Đảng phải làm cuộc cách mạng Đổi mới từ năm 1986. Trước hết là đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức, đổi mới kinh tế, vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập, Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế giới. Đổi mới lan tỏa sâu rộng, đã chắp cánh cho bao giấc mơ được hiện thực hóa, để rồi đất nước trong những thập niên sau đó đã vượt qua cái đói, cái nghèo, muôn nhà “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” như chính mong ước khát khao nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tỷ lệ giảm nghèo và tỷ lệ tầng lớp trung lưu tăng hằng năm ở nước ta 15%. Đây là một trong những cuộc vượt đói nghèo vĩ đại nhất trong lịch sử các nước. 35 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử quan trọng trong tiến trình phát triển của đất nước, đánh dấu sự trưởng thành về mọi mặt của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Đổi mới mang tầm vóc lịch sử và ý nghĩa cách mạng to lớn, là một quá trình cải biến sâu sắc, toàn diện triệt để, là sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân.
Đổi mới theo Hồ Chí Minh là sự biến đổi theo chiều hướng tích cực. Đó chính là sự thay thế cái cũ, lạc hậu, lỗi thời, thậm chí phản động, cản trở sự phát triển bằng cái mới tiến bộ, lành mạnh, phục vụ cho sự phát triển chứ không phải cái mới bất kỳ. Người chỉ rõ: “Đời sống mới không phải cái gì cũ cũng bỏ hết, không phải cái gì cũng làm mới. Cái gì cũ mà xấu, thì phải bỏ. Thí dụ: Ta phải bỏ hết tính lười biếng, tham lam. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi lại cho hợp lý. Thí dụ: Đơm cúng, cưới hỏi quá xa xỉ, ta phải giảm bớt đi. Cái gì cũ mà tốt, thì phải phát triển thêm. Thí dụ: Ta phải tương thân tương ái, tận trung với nước, tận hiếu với dân hơn khi trước. Cái gì mới mà hay, thì ta phải làm. Thí dụ: Ăn ở cho hợp vệ sinh, làm việc cho có ngăn nắp. Làm thế nào cho đời sống của dân ta, vật chất được đầy đủ hơn, tinh thần được vui mạnh hơn. Đó là mục đích của đời sống mới”. Vì vậy, suy ngẫm di cảo của Hồ Chí Minh, chúng ta không những nhận thức được tư duy biện chứng của Người về đổi mới, mà còn có quan điểm về phát triển, đó là sự phát triển hài hòa, phát triển bền vững, nghĩa là phát triển kinh tế đồng thời với phát triển văn hóa, chính trị, xã hội. Người đã có một sự khái quát vấn đề này đạt đến tầm triết lý mang ý nghĩa phương pháp luận như sau: “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”(3). Như vậy, quan niệm đúng về phát triển và phát triển bền vững cho thấy rõ vai trò to lớn của văn hóa đối với phát triển vì sự tiến bộ của con người và xã hội.
Hệ thống quan điểm của Đảng về lãnh đạo sự nghiệp phát triển nền văn hóa Việt Nam ngày càng hoàn thiện. Xây dựng và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước không chỉ là nhiệm vụ của riêng ngành Văn hóa mà là của tất cả các cấp, các ngành và của toàn xã hội. Văn kiện Đại hội đã XII nhấn mạnh: Các cấp, các ngành phải nhận thức đầy đủ và thực hiện có kết quả mục tiêu: xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Trong hội nhập văn hóa, phải tìm hiểu yếu tố nào là truyền thống, cốt lõi của văn hóa Việt Nam, trên cơ sở đó xây dựng cốt cách của mình, đồng thời, tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm cho văn hóa dân tộc. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, bảo đảm vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại”(4); “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường... tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước”(5). Qua đó, cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế, chính trị và văn hóa ngày càng chiếm vị trí đặc biệt trong đường lối xây dựng và phát triển đất nước, thể hiện tầm nhìn sáng suốt của Đảng về quá trình phát triển bền vững đất nước. Đây cũng chính là sự trở lại với tư tưởng, phương pháp luận Hồ Chí Minh.
Thứ hai, lý luận gắn với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong những nguyên tắc căn bản trong học thuyết của Mác - Lênin đã được Hồ Chí Minh tiếp thu, học tập và vận dụng sáng tạo trong quá trình nhận thức cũng như trong thực tiễn hoạt động, hành động cách mạng của Người. 
Trong quá trình hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn gắn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tinh hoa văn hóa nhân loại vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, coi đó là “kim chỉ nam” dẫn đường, chỉ lối cho cách mạng Việt Nam tiến lên. Cũng chính thực tiễn cách mạng Việt Nam giúp Người bổ sung và hoàn chỉnh lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin không phải trên cơ sở kinh nghiệm chủ nghĩa giáo điều sách vở mà là trên cơ sở của sự thống nhất nhuần nhuyễn giữa lý luận cách mạng và hoạt động thực tiễn cách mạng.
Công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều vấn đề mới, khó khăn, thách thức, mà không phải mọi vấn đề lý luận và thực tiễn đều đã được lý giải một cách đầy đủ. Vì thế, không chỉ gắn lý luận và thực tiễn trong việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, mà nguyên tắc này cần được quán triệt trong nhận thức, hành động của Đảng và nhân dân trên tất cả mọi lĩnh vực của cuộc sống. Thấm nhuần nguyên tắc này sẽ giúp cho Đảng và nhân dân tránh vấp phải những sai lầm như trước đổi mới, đồng thời, giải quyết tốt những yêu cầu mà công cuộc đổi mới đặt ra hiện nay nhằm thực hiện thắng lợi những đường lối mang tính đột phá của Đảng trong điều kiện mới.
Đối với Hồ Chí Minh, nói đi đôi với làm là thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, tư tưởng và hành động, nhận thức và việc làm. Đây không chỉ là  phương pháp luận mà trở thành lẽ sống, nguyên tắc xây dựng đạo đức cách mạng theo tư tưởng của Người. Điều này cũng đúng với tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, mọi vấn đề không chỉ dừng lại ở việc nhận thức mà còn cải tạo thế giới. Đối với mỗi người, để thực hiện được việc thống nhất giữa lời nói với việc làm, phải có nhận thức đúng và quyết tâm vượt qua chính mình. Có nhận thức đúng nhưng không vượt qua được sự cám dỗ của lợi ích cá nhân sẽ dẫn đến nói không đi đôi với làm. Để nói đi đôi với làm, còn cần có sự cố gắng, bền bĩ, dẻo dai, có kế hoạch và quyết tâm, bởi bất kỳ công việc nào, nhiệm vụ gì, dù lớn hay nhỏ, khó hay dễ, phức tạp hay giản đơn, nhưng nếu không ra sức phấn đấu thì cũng không thể thành công được. Nói đi đôi với làm thể hiện bằng kết quả công việc, với những sản phẩm cụ thể. Kết quả công việc là thước đo sự cống hiến của mỗi người. Với các cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo thì lời nói đi đôi với việc làm lại càng quan trọng và cần thiết, vì cán bộ là gốc của mọi công việc, là những tấm gương để quần chúng noi theo. Nói đi đôi với làm còn là biểu hiện của sự gương mẫu, trung thực, trong sáng của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức nêu gương trước nhân dân. Bởi “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(6).
Nói đi đôi với làm ở mỗi cán bộ đảng viên và nhân dân thể hiện qua việc cần phải lấy lợi ích quốc gia dân tộc là lợi ích tối thượng, trong đó lợi ích của nhân dân, của tập thể không tách rời với lợi ích quốc gia dân tộc. Đó cũng là mẫu số chung, là nguyên tắc của đại đoàn kết theo quan điểm Hồ Chí Minh. Người là biểu tượng, là linh hồn của khối đại đoàn kết ấy. Người nêu cao sức mạnh đoàn kết bằng chính việc làm, hành vi và hành động của mình, chứ không chỉ là đưa ra định nghĩa và dừng lại ở lời giải thích về đại đoàn kết. Thấu hiểu rằng, có dân chủ thực chất thì mới có đại đoàn kết thật sự, trong suốt quá trình hoạt động lý luận và thực tiễn chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác lập và hiện thực hóa hệ thống quan điểm về dân chủ trong tổ chức xây dựng xã hội mới trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa. Hay nói cách khác, một chế độ dân chủ mới trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội đã được Người khẳng định và quán triệt trong tất cả các lĩnh vực của đời sống của xã hội. Vì vậy, để thực hiện thật hiệu quả công cuộc đổi mới và phát triển bền vững Việt Nam, Đảng và nhân dân cần tiếp tục thường xuyên quan tâm, nghiên cứu, tổng kết và vận dụng, phát triển sáng tạo những quan điểm có tính phương pháp luận này của Người vào thực tiễn cuộc sống.
Thứ ba, bất biến gắn liền với khả biến. Với phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin ở một nước thuộc địa. Trên cơ sở của phương pháp biện chứng duy vật mácxít, Hồ Chí Minh đã làm cho hệ thống phương pháp cách mạng nói chung, phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người nói riêng không chỉ mang tính cách mạng khoa học mà còn mang tính nghệ thuật rất cao. Phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh góp phần đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua những khó khăn, thử thách để làm nên những thắng lợi trong cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Những thành tựu của công cuộc đổi mới mà Đảng và nhân dân Việt Nam đạt được đã khẳng định sự vận dụng sáng tạo phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh của Đảng trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ. Tuy vậy, trong những năm tiếp theo để tiếp tục đạt được những thắng lợi to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, Đảng và Nhà nước cần quán triệt hơn nữa phương pháp “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” Hồ Chí Minh theo những nguyên tắc: biết mình, biết người, biết thời, công việc thành công; lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động; chủ động, linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Điều này cũng góp phần bác bỏ những quan điểm sai trái, thù địch trên lĩnh vực tư tưởng, nhằm ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm thất bại âm mưu “chiến thắng không cần chiến tranh” của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. 
Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ XIII của Đảng yêu cầu: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(7). Hồ Chí Minh chỉ rõ “xây” phải đi đôi với “chống”, trong đó “xây” là chính. Vì vậy, không chỉ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh mà còn cả phương pháp luận của Người chính là một trong những giải pháp hữu hiệu cho việc thực hiện Nghị quyết 35-NQ/TW ngày 18/10/2018 của Bộ Chính trị về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”, đảm bảo tính bất biến trước muôn vàn khả biến trong xu thế hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay. Thực hiện đúng những nguyên tắc trên là cơ sở, là nền tảng để sự nghiệp đổi mới của nước ta đạt đến mục tiêu mang lại hạnh phúc thật sự cho nhân dân.
Thứ tư, lấy hạnh phúc của nhân dân là mục đích tối thượng gắn liền với lợi ích quốc gia dân tộc trong xu thế hội nhập quốc tế. Quan điểm cơ bản nhất của phương pháp luận Hồ Chí Minh chính là câu nói đanh thép của Người trong cuốn sách Đường Cách mệnh (1927): Cách mệnh! Cách mệnh! Cách mệnh! Hiểu rộng ra, đó là cuộc đấu tranh kiên cường và bền bỉ nhằm xóa chế dộ áp bức, bóc lột, thiết lập chế độ không có áp bức, bóc lột. Con người, nhân dân, các dân tộc làm chủ vận mệnh của mình, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu, đem lại ánh sáng, tự do và hạnh phúc của con người(8).
Quan điểm dân sinh và triết lý nhân sinh trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã trở thành quan điểm, triết lý cho phương pháp luận cách mạng Hồ Chí Minh. Tất cả vì cuộc sống ngày một cao đẹp cho mỗi con người và cho cả cộng đồng xã hội. Theo Hồ Chí Minh, con người không thể mưu cầu hạnh phúc nếu chỉ biết trông đợi sự ban phát, hay sự hỗ trợ từ bên ngoài mà phải bắt tay hành động để tự mình giành lấy hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người. Chỉ có cải tạo xã hội và thực hiện tiến bộ xã hội con người mới hoàn thiện được chính bản thân mình, thực hiện được ước mơ, mục đích và lý tưởng của mình. Trong suốt cuộc đời đấu tranh của mình, Hồ Chí Minh đã tiến hành đấu tranh không mệt mỏi, cống hiến không tiếc sức mình cho độc lập dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân. Ngay cả khi từ biệt thế giới này để đến với thế giới người hiền, Hồ Chí Minh vẫn lấy làm tiếc vì không còn được phục vụ nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa. Suốt cuộc đời phục vụ, mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân nhưng với bản thân Người, Người không hề đòi hỏi bất cứ điều gì cho riêng mình. 
Một điểm đặc sắc trong tư duy phát triển bền vững của Hồ Chí Minh còn là khởi đầu và kết thúc mọi vấn đề đều từ con người và gắn con người với mối quan hệ đầu tiên là gia đình. Ngay từ tháng 1/1959, trong bài nói chuyện tại Hội nghị thảo luận dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý đến hạt nhân cho tốt”. Trong vấn đề gia đình, Người đặc biệt quan tâm xây dựng văn hóa gia đình, xem văn hóa gia đình là một trong những điều kiện đảm bảo cho sự phát triển bền vững của gia đình và xã hội Việt Nam, vì theo Người đó là cội nguồn của hạnh phúc con người. 
Hiện nay, sau gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, trên nền tảng lý luận về gia đình của Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam càng nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò của gia đình với tư cách là “tế bào” vững chắc của xã hội, là môi trường lành mạnh để xây dựng nguồn lực con người; coi văn hóa gia đình và xây dựng gia đình văn hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020. Vị trí, vai trò của gia đình, nhất là văn hóa ngày càng được khẳng định và các gia đình Việt Nam ngày càng “khỏe mạnh” hơn để giữ vững vai trò là nền tảng xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo đà cho Việt Nam “cất cánh” nhanh và bền vững. 
Chính vì vậy, một trong những điểm mới của văn kiện Đại hội XIII lần này là quán triệt tinh thần đổi mới sáng tạo, khơi dậy giá trị con người Việt Nam, tranh thủ cách mạng công nghiệp lần thứ 4, vì một “Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc”. Yếu tố “hạnh phúc” là một điểm nhấn trong các văn kiện lần này. Điều này đã trở lại đúng tinh thần phương pháp luận cách mạng, nhân văn Hồ Chí Minh.
-------
(1) Võ Nguyên Giáp: Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1997, tr.260-261.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, H, 2011, t, 6, tr. 368.
(3) Hồ Chí Minh: Về văn hóa, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1997, tr.11.
(4) (5) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.1, tr. 262, tr. 114, tr.183.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr. 284.
(8) Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 1998, tr. 31-32.
 
Theo tạp chí tuyên giáo
 
NHIỀU CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 1/8/2022
   

Từ tháng 8/2022, nhiều chính sách mới có hiệu lực như: Hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ 40 triệu đồng xây nhà; Người gửi tiết kiệm có thể rút một phần trước thời hạn với lãi suất cao; Thu phí điện tử không dừng trên các tuyến cao tốc; Thuê bao di động mới phải xác thực trong cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; quy định mới về tiền lương đối với viên chức;…
Thu phí điện tử không dừng trên tất cả các tuyến cao tốc
Từ 1/8, Bộ Giao thông vận tải và các địa phương sẽ phải triển khai thu phí hoàn toàn tự động (ETC) đối với tất cả tuyến cao tốc. Nếu tài xế không dán thẻ tham gia dịch vụ ETC mà đi vào cao tốc sẽ bị xử phạt theo quy định.
Cụ thể, các trường hợp không dán thẻ ETC mà cố tình đi vào cao tốc, người điều khiển ô tô sẽ bị phạt từ 2 - 3 triệu đồng, đồng thời bị tước quyền sử dụng giấy phép lái xe từ 1 - 3 tháng.
Trước đó, tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng đã tổ chức thu phí toàn bộ theo hình thức tự động không dừng từ ngày 1/6/2022.
Rút tiết kiệm trước thời hạn vẫn hưởng lãi cao
Ngân hàng Nhà Nước ban hành thông tư số 04/2022/TT-NHNN Quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2022.
Cụ thể, trường hợp rút toàn bộ tiền gửi áp dụng mức lãi suất tối đa bằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của tổ chức tín dụng đó theo đối tượng khách hàng và/hoặc theo loại đồng tiền đã gửi tại thời điểm rút trước hạn.
Trường hợp rút một phần tiền gửi trước hạn áp dụng mức lãi suất bằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của tổ chức tín dụng đó theo đối tượng khách hàng và/hoặc theo loại đồng tiền đã gửi tại thời điểm rút trước hạn...
Thuê bao mới phải xác thực cơ sở dữ liệu dân cư
Từ 1/8, các thuê bao di động mới phát sinh phải thực hiện xác thực với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giải quyết tình trạng sử dụng SIM 'rác'.
Trong đó, Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ TT&TT và các doanh nghiệp viễn thông thống nhất quy trình thực hiện cấp số thuê bao mới, thực hiện rà soát cơ sở pháp lý và lựa chọn các giải pháp, bảo đảm hạ tầng kỹ thuật, phương án tổ chức thực hiện đối soát, xác thực thông tin thuê bao đảm bảo không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp viễn thông và các ngành, nghề kinh doanh có liên quan sử dụng số điện thoại di động.
Hộ nghèo, cận nghèo được hỗ trợ 40 triệu đồng xây nhà
Thông tư 01/2022/TT-BXD hướng dẫn thực hiện hỗ trợ nhà ở cho hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, có hiệu lực từ ngày 15/8.
Theo đó, đối tượng hộ nghèo, cận nghèo sau đây được hỗ trợ xây nhà mới 40 triệu đồng/hộ; sửa chữa nhà được hỗ trợ 20 triệu đồng/hộ.
Đối tượng thụ hưởng hỗ trợ nhà ở không bao gồm các hộ đã được hỗ trợ nhà ở thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 và các chương trình, đề án, chính sách khác.
Lương viên chức thư viện cao nhất hơn 11 triệu đồng
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ban hành Thông tư số 02 quy định mã số, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp và xếp lương viên chức chuyên ngành thư viện, có hiệu lực từ ngày 15/8.
Cụ thể, chức danh nghề nghiệp thư viện viên hạng I được áp dụng ngạch lương của viên chức loại A3, nhóm 2 (A3.2), từ hệ số lương 5,75 đến hệ số lương 7,55. Tương tự, hạng II từ hệ số lương 4,00 đến hệ số lương 6,38; hạng III từ hệ số lương 2,34 đến hệ số lương 4,98; hạng IV từ hệ số lương 1,86 đến hệ số lương 4,06.

Như vậy, kể từ ngày Thông tư 02 có hiệu lực, viên chức chuyên ngành thư viện lương cao nhất là hơn 11 triệu đồng (tương đương hệ số lương 7,55).
Theo https://tienphong.vn/
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ĐOÀN

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây