Nội dung tải tại đây:
/uploads/news/2022_09/tai-lieu-sinh-hoat-chi-doan-thang-9.2022.chinh-1.doc
Những ngày đáng nhớ trong tháng 9:
-------
- 02/9/1945: Quốc khánh Nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
- 06/9/1902: Ngày sinh Tổng Bí thư Lê Hồng Phong.
- 10/9/1955: Ngày thành lập Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
- 12/9/1930: Ngày Xô Viết - Nghệ Tĩnh.
- 1969 - 2022: 53 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- 20/9/1977: Ngày Việt Nam là thành viên Liên Hợp Quốc.
Tuyên ngôn Độc lập và "những lẽ phải không ai chối cãi được"
Ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố với toàn thể quốc dân đồng bào và thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam).
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: TTXVN
Bản Tuyên ngôn thể hiện mạnh mẽ ý chí và khát vọng của dân tộc Việt Nam “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Đó cũng là lời hịch truyền gửi đến muôn đời con cháu mai sau với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Tuyên ngôn Độc lập - quyền con người thống nhất biện chứng với quyền dân tộc
Ra đời gần 80 năm nhưng Tuyên ngôn Độc lập vẫn mang tính thời sự sâu sắc cả trên bình diện trong nước và quốc tế. Với dung lượng 1.017 từ, Tuyên ngôn Độc lập đã nêu lên những giá trị của văn minh nhân loại, những “lẽ phải không ai chối cãi được” về quyền con người, quyền dân tộc; đồng thời lên án đanh thép tội ác của chế độ thực dân, chủ nghĩa phátxít ở Việt Nam, từ đó khẳng định lẽ phải và chính nghĩa của dân tộc Việt Nam về quyền được hưởng tự do và độc lập.
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm năm 1791.
Từ việc đề cập đến quyền của con người như một sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, là quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bằng trí tuệ mẫn tiệp, bằng sự trải nghiệm thực tế và thực tiễn cách mạng Việt Nam, đã khéo léo phát triển sáng tạo, đưa ra một luận đề không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc.
"Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Người đã đi từ khái niệm con người sang khái niệm dân tộc một cách tổng quát và đầy thuyết phục, khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thật sự của độc lập dân tộc.
Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc là một sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam, mà còn đối với nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột khác trên thế giới. Đây cũng là cống hiến về nguyên lý lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.
Nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, giáo sư Singô Sibata (Nhật Bản) cho biết “cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy, tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”.
Bởi vậy, có thể nói, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 không chỉ là tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam mà còn là tuyên ngôn về quyền con người, quyền của các dân tộc thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc. Việc nâng tầm quyền con người lên thành quyền dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là một cống hiến về nguyên lý lý luận của Người vào kho tàng tư tưởng nhân quyền của nhân loại.
Kiên định vì độc lập và tự do của đất nước
Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc giữa Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 là kết quả của một quá trình đấu tranh bền bỉ, gian khó nhưng cũng hết sức sáng tạo của cách mạng Việt Nam, đỉnh cao là cuộc Cách mạng Tháng Tám lịch sử.
Và Cách mạng Tháng Tám đã thể hiện tài năng kiệt xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và bản Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh những giá trị tư tưởng, tầm nhìn thiên tài của Người đối với tiến trình phát triển đi lên, đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như sự kiên định vì độc lập và tự do của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định giá trị của độc lập, tự do mà nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh biết bao xương máu mới giành lại được.
“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!".
Người cũng nêu cao quyết tâm chiến đấu bảo vệ và giữ vững quyền thiêng liêng đó của dân tộc: “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy".
Khi đế quốc Mỹ tiến hành xâm lược miền Nam Việt Nam, đặc biệt đưa số lượng lớn quân Mỹ và chư hầu cùng với trang, thiết bị, vũ khí hiện đại vào Việt Nam, leo thang đánh phá miền Bắc với tuyên bố “sẽ đưa Việt Nam về thời kỳ đồ đá”, một lần nữa thể hiện quyết tâm, ý chí, khát vọng độc lập cao hơn hết thảy, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đến đồng bào, chiến sỹ cả nước Lời kêu gọi, trong đó chỉ rõ: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Người cũng tin vào tương lai, tin vào chính nghĩa: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Và điều đó đã thành hiện thực khi ngày 30/4/1975, chúng ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối, khát vọng về độc lập, tự do, hòa bình của cả dân tộc đã trở thành hiện thực.
Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước không chỉ là thắng lợi của chiến lược giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, mà quan trọng hơn, là hoàn thành 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, đặt dấu chấm hết cho ách thống trị hơn một thế kỷ của chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giải phóng dân tộc và thống nhất nước nhà, mở đường đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đó cũng chính là thắng lợi rực rỡ của tư tưởng Hồ Chí Minh về “Không có gì quý hơn độc lập, tự do".
Giá trị lịch sử hôm nay
77 năm đã trôi qua nhưng những quan điểm, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong bản Tuyên ngôn Độc lập về quyền con người, quyền dân tộc, về khát vọng và tinh thần đấu tranh kiên cường để giữ vững nền độc lập, tự do, vẫn vẹn nguyên tính thời sự, có ý nghĩa đặc biệt sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, văn hóa, xã hội. Việt Nam trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế đạt tốc độ cao. Chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm HDI cao của thế giới...
Cùng với đó, quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, có hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia trên thế giới; gia nhập và tích cực xây dựng Cộng đồng kinh tế ASEAN; tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế khu vực và quốc tế trên nhiều cấp độ...
Dưới ngọn cờ độc lập và tự do, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên, giành được những thắng lợi lịch sử mang tầm thời đại. Đi theo con đường Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn, Đảng ta khẳng định tiếp tục kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội...
Trong điều kiện mới, Đảng ta chỉ rõ: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; ...; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ 21, Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa".
Với khát vọng phát triển đất nước hùng cường, quan điểm chỉ đạo của Đại hội XIII của Đảng là bảo đảm trên hết và trước hết lợi ích quốc gia-dân tộc. Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới cả bề rộng và chiều sâu với một trình độ và chất lượng mới, phát triển đất nước nhanh và bền vững. Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất".
Bước vào thập niên thứ ba của thế kỷ 21, cho đến khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta kỷ niệm 100 năm ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, và 100 năm nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), tình hình thế giới sẽ tiếp tục còn nhiều thay đổi rất nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, ảnh hưởng tới sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng chắc chắn giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” sẽ không thay đổi.
77 năm đã qua, nhưng mỗi câu chữ trong Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn đầy sức sống. Khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam vẫn luôn cháy bỏng, tuôn trào từ ngàn đời đến nay và chắc chắn sẽ còn mãi về sau.
Theo TTXVN/Vietnam+
10/9/1955: NGÀY THÀNH LẬP MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆTNAM
Kế thừa, phát huy truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc ta. Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã chủ trương đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất để cùng nhau chống kẻ thù chung vì độc lập tự do của Tổ quốc.
Giữa lúc cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo mà đỉnh cao là phong trào Xô viết Nghệ tĩnh đang diễn ra sôi nổi và rầm rộ trong cả nước, ngày 18/11/1930, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương ra chỉ thị về vấn đề thành lập Hội phản đế Đồng minh, hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam.
Từ đó tới nay, ở mỗi thời kỳ khác nhau có những hình thức và tên gọi tổ chức cụ thể khác nhau phù hợp với nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng nhưng Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam nơi tập hợp các giai tầng trong xã hội vì những mục tiêu lớn của dân tộc luôn tồn tại và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam - người chủ xướng việc hình thành Mặt trận Dân tộc thống nhất trong thời hiện đại - vừa là thành viên tích cực của Mặt trận vừa bằng sự sáng tạo, đúng dắn trong đường lối, chính sách, sự gương mẫu phấn đấu vì lợi ích chung của dân tộc đã được các thành viên của Mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo.
Hiện nay, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt nam với mục tiêu tập hợp và phát huy sức mạnh của khối Đại đoàn kết toàn dân phấn đấu cho một nước Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
MẶT TRẬN THỐNG NHẤT PHẢN ĐỂ ĐÔNG DƯƠNG HỘI PHẢN ĐẾ ĐỒNG MINH (18/11/1930)
Ngay từ Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt được thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã vạch ra sự cần thiết phải xây dựng một Mặt trận Dân tộc thống nhất nhằm đoàn kết các giai tầng trong xã hội, các tổ chức chính trị, các cá nhân phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh mọi nhân tố của dân tộc phấn đấu cho sự nghiệp chung giải phóng dân tộc.
Qua phong trào cách mạng phản đế, phản phong sôi nổi trong cả nước mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh, các tổ chức chính trị với các hệ tư tưởng khác nhau nhưng gặp nhau ở mục tiêu giải phóng dân tộc lần lượt xuất hiện với sự tham gia của nhiều tầng lớp, nhiều dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định năng lực cách mạng của các giai tầng trong xã hội, khẳng định vị trí đặc biệt và hệ tư tưởng của giai cấp công nhân với việc định hướng cho cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Quá trình này cũng khẳng định khối liên minh công nông là cơ sở của Mặt trận Dân tộc thống nhất do Đảng chủ xướng. Trong Án nghị quyết về vấn đề phản đế tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 10 năm 1930 đã nêu rõ sự cấp thiết phải thành lập Mặt trận Thống nhất phản đế. Ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông dương đã ra Chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh hình thức đầu tiên của Mặt trận Dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng.
PHẢN ĐẾ LIÊN MINH (3/1935)
Tháng 3 năm 1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất đã thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh, quyết định thành lập và thông qua điều lệ của tổ chức nhằm tập hợp tất cả các lực lượng phản đế toàn Đông dương. Điều lệ của Phản đế liên minh rộng và linh hoạt hơn Điều lệ Hội phản đế đồng minh. Bất kỳ người hoặc đoàn thể nào thừa nhận nghị quyết, Điều lệ và thường xuyên nộp hội phí thì được thừa nhận là hội viên.
MẶT TRẬN THỐNG NHẤT NHÂN DÂN PHẢN ĐẾ (10/1936)
Chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế được phổ biến qua tài liệu chung quanh vấn đề chính sách mới ngày 30/10/1936 khắc phục những sai lầm trong nhận thức và hành động trong quá trình thực hiện liên minh thời kỳ trước. Việc tập hợp lực lượng trong Mặt trận được công khai qua bức thư ngỏ của Đảng Cộng sản Đông Dương gửi cho Chính phủ Mặt trận nhân dân Pháp bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp, kêu gọi ban hành một số quyền tự do dân chủ cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào "tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương".
MẶT TRẬN DÂN CHỦ ĐÔNG DƯƠNG (6/1938)
Sau khi Mặt trận nhân dân Pháp lên cầm quyền với bản chương trình hành động trong đó có nêu việc thành lập một Uỷ ban của nghị viện điều tra tình hình chính trị và kinh tế ở các thuộc địa, cùng với nhiều nước thuộc địa khác các nhà yêu nước Việt Nam kêu gọi "tiến tới một cuộc Đông dương Đại hội" sáng kiến đó được đảng Cộng sản Đông Dương ủng hộ bằng bức thư ngỏ tháng 8/1936 nêu 12 nguyện vọng cụ thể làm cơ sở cho Đông Dương Đại hội, lời kêu gọi đã dấy lên một phong trào sôi nổi trong nhân dân cả nước.
Tháng 9/1937 một loạt các tổ chức như Thanh niên Dân chủ Đông Dương, Hội Cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội ra đời cùng với việc hoạt động công khai và nửa công khai của các tổ chức quần chúng nhuư hội ái hữu, tương tế, các hội hoạt động âm nhạc... từng bước hình thành một Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
Tháng 6/1938 Đảng Cộng sản Đông Dương gửi thư công khai cho các đảng phái đề nghị gác các ý kiến bất đồng để "bước tới thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương" chính trong thời kỳ này từ những phong trào Mặt trận đã dần hình thành Mặt trận với tính chất của một tổ chức.
MẶT TRẬN THỐNG NHẤT DÂN TỘC PHẢN ĐẾ ĐÔNG DƯƠNG (11/1939)
Tháng 9/1939,chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, Mặt trận Dân chủ Đông dương bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp. Cùng với sự đầu hàng thoả hiệp của thực dân Pháp với phát xít Nhật, vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương đã đặt ra. Tháng 11/1939 Đảng Cộng sản Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng chỉ đạo, chuyển cuộc vận động Mặt trận Dân chủ thành Mặt trận Dân tộc thống nhất chống chiến tranh đế quốc với tên gọi chính thức: Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc. Các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới hình thức bí mật và công khai.
VIỆT NAM ĐỘC LẬP ĐỒNG MINH HỘI GỌI TẮT LÀ VIỆT MINH
(19/5/1941)
Năm 1940, quân Nhật kéo vào Đông dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho phát xít Nhật. Tại Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ 8, theo đề nghị của lãnh tụ Nguyễn ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát xít Pháp Nhật với tên gọi Việt nam Độc lập đồng minh gọi tắt là Việt minh đã ra đời ngày 19.5.1941 lấy cờ đỏ sao vàng năm cánh làm cờ của Việt minh và làm cờ tổ quốc "khi thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà".
Mặt trận Việt minh thu hút được mọi giới đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú nông và một số địa chủ nhỏ có tinh thần yêu nước, đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong những năm 1941-1945, Mặt trận Việt minh là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng thành công.
, Từ sáng kiến triệu tập toàn quốc đại biểu đại hội, Đại hội Quốc dân do Tổng bộ Việt minh triệu tập họp ở Tân trào trong 2 ngày 16-17/8/1945 đã thông qua lệnh tổng khởi nghĩa, quyết định quốc kỳ, quốc ca cử ra Uỷ ban giải phóng dân tộc tức là Chính phủ lâm thời do Hồ Chí minh làm Chủ tịch và ngày 2/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc tuyên ngôn độc lập, đại biểu tổng bộ Việt minh Nguyễn Lương Bằng đọc lời hiệu triệu đồng bào cả nước.
HỘI LIÊN HIỆP QUỐC DÂN VIỆT NAM GỌI TẮT LÀ HỘI LIÊN VIỆT
(29/5/1946)
Năm 1946, giữa lúc nước Việt nam dân chủ cộng hoà vừa ra đời phải đương đầu với nhiều khó khăn lớn, một Ban vận động thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt nam gồm 27 người với đại biểu Việt minh là Hồ Chí Minh, được thành lập nhằm mở rộng hơn nữa khối đoàn kết dân tộc.
Việt minh và Liên Việt đã cùng nhau làm chỗ dựa vững chắc cho chính quyền Cách mạng non trẻ đối phó có hiệu lực với thù trong giặc ngoài.
MẶT TRẬN LIÊN VIỆT (3/3/1951)
Năm 1951, trong lúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã đi vào giai đoạn quyết liệt, thực hiện khẩu hiệu " Tất cả cho tiền tuyến ", yêu cầu tập hợp các hình thức tổ chức Mặt trận để đoàn kết động viên toàn dân ta tập trung sức người sức của đẩy mạnh kháng chiến trở nên cấp bách. Với các chủ trương đường lối đúng đắn Đảng Lao động Việt Nam và sự ủng hộ tích cực của các Đảng Xã hội, Đảng Dân chủ, các tổ chức chính trị, các nhân sĩ trí thức trong Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt, hai tổ chức Mặt trận được hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt.
Mặt trận Liên Việt đã góp phần động viên công sức của toàn quân, toàn dân lập nên chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ, đưa đến việc ký kết hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954 công nhận chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt nam.
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM (10/9/1955)
Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam Việt nam, hất cẳng thực dân Pháp và phá hoại hiệp định Giơ-ne-vơ âm mưu chiếm đóng miền Nam chia cắt lâu dài nước ta. Cách mạng Việt nam lúc này có hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc đã được hoàn toàn giải phóng và hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Trong bối cảnh đó, ngày 10.9.1955, Mặt trận Tổ quốc Việt nam ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng dân tộc và dân chủ, đấu tranh đánh bại đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai, xây dựng một nước Việt nam hoà bình thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh.
Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã phát huy tác dụng to lớn của mình trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước cũng như trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã động viên đồng bào và chiến sĩ nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng đánh thắngchiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ và hết lòng hết sức đáp ứng các yêu cầu của cuộc đấu tranh yêu nước của đồng bào miền Nam. Mặt trận Tổ quốc Việt nam đã tích cực tham gia cải tạo Xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và giúp đỡ các nhà tư sản dân tộc thông suốt chính sách làm cho cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tiến hành thuận lợi, đạt kết quả. Mặt trận đã tích cực góp phần phát huy quyền làm chủ của nhân dân, ra sức động viên nhân dân tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xây dựng chính quyền cách mạng, phát triển sản xuất, xây dựng kinh tế, thực hiện nếp sống mới, xây dựng con người mới.
MẶT TRẬN DÂN TỘC GIẢI PHÓNG MIỀN NAM VIỆT NAM
(20/12/1960)
Trong cao trào đồng khởi của đồng bào miền Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (20-12/1960) nhằm đoàn kết toàn dân đánh bại chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, đánh đổ nguỵ quyền tay sai của chúng, giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất Tổ quốc. Với đường lối đúng đắn ấy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã tập hợp dưới ngọn cờ đại nghĩa của mình các tầng lớp nhân dân, các tổ chức và mọi người Việt nam yêu nước, để cùng nhau chống Mỹ cứu nước.
Mặt trận dân tộc giải phóng không ngừng củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên đồng bào và chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không ngừng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân miền Nam và uy tín của mặt trận đã được nâng cao trên trường quốc tế
LIÊN MINH CÁC LỰC LƯỢNG DÂN TỘC DÂN CHỦ VÀ HÒA BÌNH VIỆT NAM
Trong cao trào tiến công và nổi dậy đầu xuân Mậu Thân (1968) Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam ra đời (20/4/1968). Kết tụ từ các phong trào đấu tranh yêu nước của các giới sinh viên, học sinh, trí thức, đồng bào tôn giáo, công thương gia, nhân sĩ dân chủ tại các thành thị miền Nam, Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam bằng những công tác trong nước và ngoài nước đã góp sức động viên xúc tiến các phong trào ấy, tăng thêm sức mạnh cho khối đoàn kết toàn dân, chống Mỹ cứu nước.
Phấn đấu cho một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng miền Bắc thực hiện thống nhất nước nhà, Mặt trận Tổ quốc Việt nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt nam đã luôn luôn hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau tạo nên một sức mạnh không gì lay chuyển nổi của khối đại đoàn kết dân tộc, và đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của toàn dân đến thắng lợi hoàn toàn, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện thống nhất nước nhà.
MẶT TRẬN TỔ QUỐC VIỆT NAM
Sau khi cả nước đã được độc lập, sự thống nhất và toàn vẹn của một quốc gia đòi hỏi hợp nhất 3 tổ chức mặt trận. Nhằm đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp từ 31/1 đến 4/2/1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã thống nhất ba tổ chức Mặt trận ở hai miền Nam Bắc nước ta thành một tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất duy nhất lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống nhất ý chí của tất cả các tổ chức của các giai tầng trong xã hội, các cá nhân tiêu biểu của các dân tộc, tôn giáo, tầng lớp, các vị lãnh đạo tiêu biểu cho ý chí đoàn kết của dân tộc, luôn phấn đấu xây dựng khối Đại đoàn kết dân tộc vững mạnh thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh vị lãnh tụ của toàn dân tộc: "Mục đích phấn đấu của Mặt trận Dân tộc thống nhất là xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh".
Theo https://ubmt.quangbinh.gov.vn/
KỶ NIỆM 92 NĂM XÔ VIẾT - NGHỆ TĨNH
(12/9/1930-12/9/2022)
|
Xô viết-Nghệ Tĩnh - Cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt Nam
Ngay sau khi ra đời vào ngày 03/02/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã bắt tay vào việc lãnh đạo, quy tụ sức mạnh của quần chúng và phát động cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ta trong cả nước, mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử cách mạng Việt Nam.
“Tuy đế quốc đã dập tắt phong trào trong một biển máu, nhưng Xô viết Nghệ- Tĩnh đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này…” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Ngày 01/5/1930, nhân kỷ niệm Ngày Quốc tế Lao động, tổ chức đảng ở nhiều địa phương trong cả nước đã lãnh đạo quần chúng nhân dân treo cờ Đảng, rải truyền đơn, tổ chức mít-tinh, biểu tình, tuần hành thị uy… đấu tranh đòi tăng lương, giảm giờ làm cho công nhân; giảm sưu, giảm thuế cho nông dân. Đặc biệt, từ tháng 9/1930, cuộc đấu tranh của quần chúng đã phát triển đến đỉnh cao trong phạm vi toàn quốc, quyết liệt nhất là ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của 3.000 nông dân huyện Nam Đàn (Nghệ An) ngày 30/8/1930 và cuộc đấu tranh của 3.000 nông dân huyện Can Lộc (Hà Tĩnh) ngày 7/9/1930 đã làm cho kẻ địch hoang mang, lo sợ.
Trong lúc thực dân Pháp đang bối rối, ngày 12/9/1930 nổ ra cuộc biểu tình của 8.000 nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) kéo về thị xã Vinh. Sau khi nghe tiếng trống hiệu lệnh phát ra từ đình làng Xuân Hòa, lập tức tiếng trống, mõ, chiêng đồng từ làng này đến làng khác đồng loạt hưởng ứng, liên hoàn, thôi thúc quần chúng lao động xuống đường. Cuộc đấu tranh sau đó còn có sự tham gia của nông dân tổng Nam Kim (Nam Đàn) và công nhân Vinh-Bến Thuỷ. Đoàn biểu tình gồm có bốn cánh quân: Cánh quân thứ nhất từ chợ Rộng, cánh quân thứ hai từ Dương Pha, cánh quân thứ ba từ ga Yên Xuân, cánh quân thứ tư từ Lệ Xá, theo con đường Hoàng Cần, Thông Lãng, Thái Lão; đoàn biểu tình đã bắt “sếp” ga Yên Xuân là Nguyễn Ngọc Mỹ đi theo, đồng thời cắt điện thoại liên lạc tại ga này.
Khi đoàn biểu tình ra đến Thái Lão (cách Vinh 5km) thì bị hai máy bay địch đến ném bom vào lúc 8 giờ 30 phút. Đến 16 giờ chiều cùng ngày, khi nhân dân đang chuyển xác chết, địch lại cho máy bay đến ném bom lần thứ hai, làm 217 người chết, hàng trăm người bị thương. Sự kiện này đã thổi bùng thêm ngọn lửa đấu tranh lan rộng khắp các địa phương, kéo dài cho tới năm 1931, dẫn tới sự tan rã bộ máy chính quyền của thực dân, phong kiến và hình thành các Xô viết. Trước khí thế đấu tranh của quần chúng, chính quyền thực dân Pháp và phong kiến hoảng sợ, nhiều tri huyện, lý trưởng nộp lại ấn tín hoặc chạy trốn, chính quyền của địch tan rã ở nhiều nơi.
Tại Nghệ An, tổ chức Nông hội với các hình thức Xô viết đã nắm chính quyền ở các xã thuộc huyện Thanh Chương, Nam Đàn, một phần ở huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên và Diễn Châu. Ở Hà Tĩnh, tại các huyện Can Lộc, Thạch Hà và Đức Thông có tới 172 xã thành lập Xô viết. Phong trào Xô viết Nghệ -Tĩnh đã giành được sự ủng hộ dưới nhiều hình thức của các địa phương trong cả nước. Ở Quảng Ngãi tiêu biểu là sự kiện Cuộc biểu tình của hơn 5.000 người, chủ yếu là nông dân đã tiến chiếm huyện đường Đức Phổ vào ngày 08/10/1930…, góp phần kích thích phong trào trong toàn quốc dâng cao.
Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng đã dẫn tới sự ra đời chính quyền công-nông đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam: Xô viết Nghệ Tĩnh. Chính quyền Xô Viết đã đem lại những thay đổi to lớn ở nông thôn như: chia lại ruộng đất công, xoá bỏ sưu thuế, huy động nhân dân tham gia đào mương chống hạn, xoá nạn mù chữ, xoá bỏ các tập tục lạc hậu, thành lập các đội tự vệ đỏ để bảo vệ thành quả cách mạng.
Tuy sau đó, các Xô viết đều bị thực dân Pháp đàn áp, nhiều tổ chức cách mạng bị khủng bố và chịu những tổn thất to lớn. “…đã chứng tỏ tinh thần oanh liệt và năng lực cách mạng của nhân dân lao động Việt Nam. Phong trào tuy thất bại, nhưng nó rèn lực lượng cho cuộc Cách mạng Tháng Tám thắng lợi sau này” (Chủ tịch Hồ Chí Minh).
Trải qua gần hai năm vượt lên mọi thử thách ác liệt, cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh tuy bị thực dân Pháp và tay sai đàn áp đẫm máu, nhưng nó thực sự là cuộc Tổng diễn tập đầu tiên, rất quan trọng của phong trào cách mạng vô sản Việt Nam, giúp cho Đảng ta được tôi luyện và trưởng thành. Khi phong trào Xô viết Nghệ-Tĩnh bùng nổ, Bác Hồ đang hoạt động ở nước ngoài. Sau khi nhận được báo cáo về cuộc đấu tranh và vụ thảm sát ngày 12/9/1930 ở Hưng Nguyên (Nghệ An), Bác Hồ đã viết thư đề nghị Quốc tế Nông dân và Quốc tế Cộng sản, trước hết là Đảng Cộng sản Pháp cần tiến hành một chiến dịch chống đế quốc Pháp ở Đông Dương.
Với tư cách là uỷ viên Bộ Phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, trực tiếp chỉ đạo cách mạng Đông Dương, Bác Hồ đã soạn thảo nhiều tài liệu về Xô viết Nghệ-Tĩnh, báo cáo cho Quốc tế Cộng sản và trực tiếp chỉ đạo sâu sát phong trào trong nước. Ngày 29/9/1930, Người gửi thư cho Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, khẩn thiết yêu cầu giúp đỡ những người bị thực dân Pháp đàn áp đẫm máu ở Nghệ An, Hà Tĩnh. Trong thư có đoạn: “…Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu các đồng chí làm những việc có thể để giúp đỡ các nạn nhân của cuộc đàn áp đẫm máu. Đề nghị cho biết ngay chúng tôi phải làm gì để giúp họ thông qua tổ chức Quốc tế cứu tế đỏ”.
Nhận được thư của Bác Hồ, Quốc tế Cộng sản đã chỉ thị cho Đảng Cộng sản các nước trên thế giới, nhất là Đảng Cộng sản Pháp có những việc làm thiết thực nhằm ủng hộ Xô viết Nghệ-Tĩnh. Mặt khác, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh cũng đã đề nghị Trung ương Đảng ta phát động phong trào cả nước ủng hộ Nghệ Tĩnh. Theo lời kêu gọi của Trung ương Đảng, nhân dân Sài Gòn, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Thừa Thiên, Hà Nội, Quảng Ninh, Sơn Tây, Thanh Hoá… Đã đứng lên hướng về Nghệ Tĩnh. Xô viết Nghệ-Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng nước ta trong những năm 1930-1931 và là cuộc khởi nghĩa đầu tiên dưới sự lãnh đạo của Đảng sau khi ra đời.
Xô viết-Nghệ Tĩnh có tầm vóc, ý nghĩa lịch sử to lớn và để lại những bài học kinh nghiệm sâu sắc về việc lãnh đạo, đoàn kết, tập hợp và phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân của Đảng ta. Trong lời viết cho Bảo tàng Xô viết Nghệ-Tĩnh, ngày 03/02/1964, Bác Hồ nhấn mạnh: “Xô Viết-Nghệ Tĩnh là chính quyền cách mạng đầu tiên của công nông, đã lật đổ chính quyền phản động của đế quốc và phong kiến ở mấy nơi trong hai tỉnh Nghệ Tĩnh… Truyền thống oanh liệt của Xô Viết-Nghệ Tĩnh đã thúc đấy phong trào cách mạng trong cả nước tiến lên và đưa đến Cách mạng tháng Tám thành công rực rỡ…”.
Theo https://www.quangngai.dcs.vn/
1969 - 2022: 53 NĂM THỰC HIỆN DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
|
Triển khai
53 mùa Xuân nhớ lời Di chúc Bác
Lại một mùa Xuân mới đang về. Đã 53 mùa xuân (1969-2022) kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc ta đi vào cõi vĩnh hằng, nhưng cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Người mãi mãi là tấm gương sáng cho chúng ta noi theo. Bác luôn ở trong tâm khảm những người con Lạc cháu Hồng mang dòng máu Việt và mỗi người dân Việt Nam luôn nhớ Người. Đó là tình cảm sâu đậm trong đời sống tinh thần Việt Nam đương đại.
Đã 53 năm Bác không còn nữa, việc Bác "chọn" thời khắc khởi đầu đi vào cõi vĩnh hằng là 9 giờ 47 phút ngày 02/9/1969, đúng vào ngày Bác đã từng khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa 24 năm về trước. Điều này Người muốn khẳng định, cả cuộc đời và sự nghiệp của mình, tất cả đều vì nhân dân, vì dân tộc và non sông đất nước. Một huyền thoại Việt Nam ở thế kỷ 20.
Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng do đồng chí Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc đầy xúc động và tự hào: "Hơn 60 năm qua, từ buổi thiếu niên cho đến phút cuối cùng, Hồ Chủ Tịch đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta và nhân dân thế giới. Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ… Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, Người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta ".
53 năm đã qua, từ thời điểm thiêng liêng, kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng và của dân tộc ta đi theo Mác, Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác. Người đã để lại cho chúng ta bản Di chúc lịch sử thiêng liêng, bất hủ, một nguồn sức mạnh trường tồn. Di chúc của Người là văn kiện lịch sử vô giá, làm nổi bật những tư tưởng cơ bản, cốt cách, tâm hồn cao đẹp và đạo đức trong sáng của Bác Hồ, là ngọn đèn pha chói lọi soi sáng con đường đi tới vinh quang và thắng lợi của dân tộc ta, Đảng ta.
Ở tuổi 79, Bác vẫn tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". Đọc lại Di chúc của Bác, chúng ta thật sự xúc động, vẫn không cầm được nước mắt như ngày nào trước sự "tự kiểm điểm" nghiêm túc và chân thành của Bác với Đảng, với nhân dân trước khi đi xa. Bác ra đi vẫn không quên để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng.
Bác căn dặn chúng ta: Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên những suy nghĩ tâm huyết và sâu xa của Người.
Trước hết nói về Đảng, Người nhắc nhở: "Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Người nói: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân".
Với đoàn viên, thanh niên, Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa hồng vừa chuyên. Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
Đối với nhân dân lao động, Người dành những tình cảm trìu mến: "Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân".
Bác kết thúc bản Di chúc của mình: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Chúng ta hiểu rằng, đây là chỉ thị cuối cùng, ước vọng tối cao của Bác trước lúc đi xa.
Ngày ấy, đồng chí Lê Duẩn thay mặt toàn Đảng, toàn dân ta hứa trước anh linh Bác Hồ năm lời thề danh dự: Giương cao mãi mãi ngọn cờ độc lập dân tộc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đem hết sức mình tiếp tục phấn đấu thực hiện lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa cao đẹp mà Người đã vạch ra cho giai cấp công nhân và nhân dân ta, đem lại phồn vinh cho đất nước, hạnh phúc cho đồng bào. Hết lòng, hết sức giữ gìn đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình; tăng cường sức chiến đấu của Đảng, là hạt nhân cho khối đại đoàn kết toàn dân, bảo đảm cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam hoàn toàn thắng lợi. Luôn luôn phát huy tình cảm quốc tế trong sáng, ra sức ủng hộ phong trào cách mạng của nhân dân các nước, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Suốt đời học tập đạo đức, tác phong của Người, bồi dưỡng phẩm chất cách mạng, không sợ gian khổ, không sợ hy sinh, rèn luyện mình thành những chiến sĩ trung thành với Đảng, với dân, xứng đáng là đồng chí, là học trò của Bác. Noi gương Bác, toàn thể nhân dân ta, thanh niên ta nguyện ra sức trau dồi mình thành những con người mới, mang lá cờ bách chiến bách thắng của Người tới đích cuối cùng.
53 năm qua, nhân dân Việt Nam anh hùng, dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã đoàn kết một lòng, đem hết tinh thần và nghị lực, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, gian khổ và hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi để biến thành hiện thực những lời Bác dặn, nhờ đó, đã giành được những thắng lợi vang dội làm rạng rỡ non sông đất nước, mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ "lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu" và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, thực hiện lời tiên đoán của Người: Nước ta sẽ có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc Pháp và Mỹ, góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc.
Công cuộc đổi mới đất nước hơn 35 năm, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, tạo ra thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam, tạo tiền đề rất quan trọng để chúng ta tiếp tục công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang, chúng ta càng nhận thức rằng, mỗi bước đi lên, mỗi chiến công và thành tựu của Đảng ta, dân tộc ta giành được, đều bắt nguồn từ công lao trời biển và gắn liền với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
53 năm thực hiện Di chúc của Bác (1969-2022) là dịp nhân dân cả nước cùng dâng hương lên Người và vui mừng khôn xiết báo cáo với Bác những việc đã làm được. Chắc hẳn Bác vui khi trông thấy bộ mặt đất nuớc ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn", đời sống nhân dân được cải thiện, vị thế quốc gia trên trường quốc tế đang dâng cao, chính trị ổn định, đất nước đang mở cửa, hội nhập quốc tế, quan hệ đối ngoại đạt được những kết quả tích cực và quê hương của Người hiện là một một xứ sở an bình nhất thế giới.
Mỗi khi Xuân về, Tết đến, nhớ lại lời Di chúc của Bác - Người đã suốt đời vì Đảng, vì nước, vì dân, mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thường xuyên tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; gắn với Chỉ thị 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chuyển từ nhận thức sang hành động, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Bác Hồ về thực hành tiết kiệm, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, quan liêu, sửa đổi lối làm việc gắn với cải cách hành chính, nói đi đôi với làm, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Theo https://tinhuykhanhhoa.vn/
HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Biểu tượng của tinh hoa và khí phách dân tộc Việt Nam
Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh là nói đến biểu tượng của tinh thần yêu nước, khí phách anh hùng và khát vọng độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc Việt Nam. Tất cả những gì tốt đẹp nhất của dân tộc ta trong hàng nghìn năm lịch sử đều được kết tinh, hun đúc, sống dậy, tràn đầy sức mạnh hơn bao giờ hết trong cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, trong thời đại Hồ Chí Minh.
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh hàm chứa những giá trị tinh thần cao quý như độc lập, tự do, hạnh phúc, loại bỏ bất công, bất bình đẳng, hòa bình và công lý, một thế giới mới chống lại đói nghèo, bệnh tật, dốt nát.
Chủ nghĩa yêu nước, giá trị hàng đầu, nhất quán, sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại, phát triển qua các giai đoạn lịch sử, đến thời đại Hồ Chí Minh, là một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của nó là “đường”, là hướng đi thì đích thực là đạo Việt Nam”(1). Trải qua các giai đoạn lịch sử từ cái nôi Văn Lang - Âu Lạc đến thời kỳ nghìn năm Bắc thuộc chống đô hộ Hán, Đường, qua kháng chiến chống xâm lược thế kỷ X đến thế kỷ XVIII, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam có cách biểu hiện cao thấp, sắc thái khác nhau, nhưng ngày càng phát triển cả bề rộng và sâu, đậm đà cốt cách Việt Nam. Đến giai đoạn lịch sử cận đại, khi triều Nguyễn lên ngôi, giai cấp phong kiến Việt Nam từng bước từ bỏ ngọn cờ yêu nước, giai cấp tư sản không đủ sức giương cao ngọn cờ yêu nước, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam được giai cấp công nhân nâng lên một tầm cao mới.
Được ánh sáng khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Lênin (chủ nghĩa Mác - Lênin) soi sáng, Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản. Từ đó trở đi, Người cùng với Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam - Đảng do Người sáng lập và rèn luyện - phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống, đưa vào những nội dung mới, chất lượng mới, trở thành một bộ phận của tinh thần quốc tế, kết hợp nhuần nhuyễn, phát huy một cách hài hòa với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong toàn bộ tiến trình cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa yêu nước là thứ của quý, động lực tinh thần lớn nhất cho cách mạng, kháng chiến và xây dựng. Người khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”(2). Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần yêu nước “có khi được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng, dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày. Nghĩa là phải ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”(3).
Chủ tịch Hồ Chí Minh phát kiến lại chủ nghĩa yêu nước truyền thống không phải bằng lý luận, sách vở thuần túy mà chủ yếu thông qua thực tiễn giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Người sử dụng liên tục chủ nghĩa yêu nước như một vũ khí và rèn luyện vũ khí ấy ngày càng sắc bén trong trường kỳ cách mạng và kháng chiến. Người chỉ rõ: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do, phú cường, một nước Việt Nam dân chủ mới”(4).
Sau gần 90 năm (1858-1945), dân tộc ta đánh Pháp, Nhật và chế độ phong kiến với tinh thần Hồ Chí Minh trong lời hiệu triệu: “Dân ta một cổ hai tròng. Đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật. Trước tình cảnh đau đớn, xót xa ấy, ta có chịu khoanh tay chờ chết không? Không, quyết không! Hơn 20 triệu con Lạc cháu Hồng quyết không chịu làm vong quốc nô lệ mãi!... Hỡi đồng bào yêu quý! Việc cứu quốc là việc chung. Ai là người Việt Nam đều phải kề vai gánh vác một phần trách nhiệm”(5). Cuối cùng, chúng ta đã thắng. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!(6).
Khi thực dân Pháp trở lại cướp nước ta một lần nữa, lời hịch của ông cha ta tự ngàn xưa vang vọng trong lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ… Chúng ta phải đứng lên… Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy, gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(7). Sau chín năm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn, đem thân làm giá súng”, chúng ta đã viết nên thiên sử vàng Điện Biên, lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Hơn hai mươi năm tiếp theo, khi đế quốc Mỹ mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược ở cả miền Nam và miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ hào khí Việt Nam, khảng khái tuyên bố rằng đế quốc Mỹ có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng. “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(8). “Cuộc kháng chiến chống Mỹ có thể còn kéo dài. Đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn… Dù khó khăn gian khổ đến mấy, nhân dân ta nhất định sẽ hoàn toàn thắng lợi. Đế quốc Mỹ nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”(9). Cuối cùng, Mỹ phải cút, ngụy phải nhào, Tổ quốc thống nhất, giang sơn thu về một mối. Chúng ta “có vinh dự lớn là một nước nhỏ mà đã anh dũng đánh thắng hai đế quốc to - là Pháp và Mỹ; và đã góp phần xứng đáng vào phong trào giải phóng dân tộc”(10).
Nhiều dân tộc trên thế giới bị xâm lược và đứng lên chống xâm lược, không riêng Việt Nam, nhưng như Việt Nam thì không nhiều. Nhiều người nước ngoài không hiểu nổi sức mạnh của dân tộc Việt Nam là gì? Vì sao dân tộc Việt Nam thời trung đại, không những không bị Hán hóa, mà còn giành được độc lập dân tộc? Ba lần đánh bại quân Mông, Nguyên, những kẻ luôn luôn chiến thắng từ Á sang Âu? Từ một nước nông nghiệp, khoa học kỹ thuật kém phát triển, đã vùng lên giải phóng, đánh bại các cuộc xâm lược của các đế quốc hùng mạnh là Pháp và Mỹ? Còn nhiều câu hỏi vẫn phải tiếp tục tìm câu trả lời hoàn toàn thuyết phục.
Việt Nam đất không rộng, người không đông, vũ khí súng đạn không nhiều, không lớn, luôn phải đối mặt với những cường quốc to lớn hơn mình gấp nhiều lần. Vậy khí phách của dân tộc Việt Nam là gì? Câu trả lời nằm ở chỗ một dân tộc biết đặt tâm lý tinh thần độc lập tự cường lên hàng đầu; luôn coi trọng luân lý biết hy sinh lợi ích cá nhân mình, làm lợi cho quần chúng. Những cuộc khởi nghĩa và chiến tranh kéo dài hàng nghìn năm đã nhào nặn tâm hồn Việt Nam, đạo lý và khí phách Việt Nam. Chúng ta tự hào về một dân tộc rắn rỏi, kiên trung, hiên ngang, có tinh thần độc lập tự chủ, lạc quan, sáng tạo, thương người, chính nghĩa, đại nghĩa, trước “sóng cả không ngã tay chèo”.
Những giá trị đó có tự ngàn xưa, được vun bồi, kết tinh, sống dậy trong Hồ Chí Minh, phát sáng hào quang. Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng rực rỡ của cuộc chiến đấu giành tự do; là mẫu mực xuất chúng về mọi đức tính nhân đạo, tượng trưng cho tinh thần của dân tộc “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(11); “một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(12); “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp mình đã”(13). Để khởi nghĩa thắng lợi, Người khái quát và nâng cao tinh thần, khí phách của dân tộc: “Dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”(14).
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương tuyệt vời về nhiệt tình, chí khí cách mạng kiên cường, khí phách anh hùng, tinh thần độc lập tự do, một lòng kiên trì cuộc đấu tranh cách mạng gian khổ, lâu dài, phức tạp, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; thắng không kiêu, bại không nản. Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được sứ mạng lịch sử trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc.
Nguyễn Trãi viết: “Lấy đại nghĩa thắng hùng tàn/Dùng chí nhân thay cường bạo”.
“Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới
Càn khôn bĩ rồi lại thái
Nhật nguyệt tối rồi lại minh
Để mở nền muôn thuở thái bình
Để rửa nỗi nghìn thu sỉ nhục”.
Đó là một khía cạnh đặc trưng thuộc tinh hoa và khí phách của dân tộc Việt Nam - tinh hoa và khí phách về khát vọng đổi mới, hạnh phúc và phát triển bền vững, thái bình. Hồ Chí Minh tiếp nối, phát triển, nâng cao khát vọng đó với tâm nguyện đến ngày thắng lợi sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, hơn mười ngày nay. Trong Di chúc, Người viết: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(15).
Thế giới khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh là một chiến sĩ cộng sản theo chủ nghĩa quốc tế, đồng thời tượng trưng cho dân tộc mình, một dân tộc trải qua hàng nghìn năm lịch sử, từ thời cổ trung đại đến cận hiện đại đã tiến hành liên tục các cuộc đấu tranh anh hùng để bênh vực những giá trị đạo đức cao cả, chân chính không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà cả với nhân loại, đó là quyền sống, độc lập, tự do, hạnh phúc, công lý cho mọi dân tộc và vì mọi người, bình đẳng giữa các dân tộc, thế giới hòa bình.
Năm 1980, trên cương vị Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới, Rômét Chanđra nhấn mạnh: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”(16).
Chủ tịch Hồ Chí Minh tỏ rõ phẩm chất của một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cách mạng vô sản dũng cảm kiên cường, triệt để, suốt đời hy sinh phấn đấu với niềm tin và tư thế của một người chiến thắng. Đó là khí phách và khát vọng của những người được sứ mạng lịch sử trao cho là đánh đổ xã hội cũ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng xã hội mới của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy dân làm gốc.
|
Hai mươi năm sau, năm 2000, trên cương vị Chủ tịch danh dự Hội đồng Hòa bình thế giới, phát biểu trong Hội thảo quốc tế “Việt Nam trong thế kỷ XX”, Rômét Chanđa có một phát hiện độc đáo khác: “Trong nửa sau thế kỷ XX, có một từ đã xuất hiện trong tiếng nói của những người bảo vệ và kiến tạo hòa bình trên thế giới, một từ mà cùng một lúc mang rất nhiều ý nghĩa: đấu tranh, dũng cảm, anh hùng; và nó còn có ý nghĩa là chiến thắng, độc lập, tự do. Từ đó là Việt Nam. Và có một cái tên luôn luôn gắn với từ này - từ chỉ tên của một đất nước. Đó là Hồ Chí Minh… Người là niềm cảm hứng cho cuộc đấu tranh bất khuất của dân tộc mình, và cũng là nguồn cảm hứng cho tất cả các dân tộc đang đấu tranh cho những điều tốt đẹp nhất của nhân loại. Lời nói bất hủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã vang vọng khắp mọi nơi và nó đã được phụ nữ, nam giới trên khắp các châu lục, những người đang chiến đấu để giành lấy những mục tiêu thiêng liêng đó, hưởng ứng”(17).
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại, “một biểu tượng xuất sắc về sự tự khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(18).
Vĩnh biệt Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta khẳng định: “Người là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam suốt bốn nghìn năm lịch sử. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Đó là lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết hiện nay của Tổ quốc, là lời hịch của ông cha ta vang vọng tự ngàn xưa, là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta đối với muôn đời con cháu”(19). Người “là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta”(20).
Đánh giá, ghi nhận của Đảng ta và bè bạn quốc tế là sự khái quát cao, cô đọng, súc tích về Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng cho tinh hoa và khí phách của nhân dân Việt Nam anh hùng.
PGS.TS. Bùi Đình Phong/TG
-------
(1) GS. Trần Văn Giàu: Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam (tái bản có bổ sung và sửa chữa), Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.116.
(2) (3) (4) (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.7, tr.38, 38 -39, 39, 445.
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2, tr.286, 320.
(5) (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.229-230, 596.
(6) (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.3, 534.
(8) (9) (10) (15) (19) (20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.15, tr.131, 623, 612, 624, 627, 626.
(14) Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, t.2, tr.225.
(16) Viện Hồ Chí Minh: Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nxb. Lao động - Nxb. Quân đội nhân dân, H, 1993, tr.90.
(17) Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Đại học Quốc gia Hà Nội: Việt Nam trong thế kỷ XX, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2001, tr.48.
(18) GS.TS. Mạch Quang Thắng - PGS.TS. Bùi Đình Phong - TS. Chu Đức Tính: UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất, Nxb.Chính trị quốc gia, H, 2013, tr.71.
Theo https://tuyengiao.phuyen.gov.vn/
|
|
|
Chính sách mới có hiệu lực từ tháng 9:
Thí điểm đưa phạm nhân lao động ngoài trại giam; ghi âm, ghi hình trái phép tại phiên tòa bị phạt đến 15 triệu đồng... là chính sách có hiệu lực từ tháng 9.
Thí điểm đưa phạm nhân ra lao động ngoài trại giam
Nghị quyết 54/2022 của Quốc hội có hiệu lực từ ngày 1/9 cho phép thí điểm mô hình đưa phạm nhân lao động, học nghề ngoài trại giam. Số trại giam được áp dụng thí điểm không quá 1/3 tổng số trại giam thuộc Bộ Công an.
Việc tổ chức lao động, học nghề cho phạm nhân ngoài trại giam phải bảo đảm an ninh, an toàn. Phạm nhân tham gia chương trình tự nguyện, bình đẳng và được trả một phần công lao động; được thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Các đơn vị hợp tác với trại giam trong thời gian thí điểm được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp.
Ghi âm, ghi hình trái phép tại phiên tòa bị phạt đến 15 triệu đồng
Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi cản trở hoạt động tố tụng có hiệu lực từ 1/9, quy định phạt tiền 7-15 triệu đồng đối với hành vi ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của HĐXX mà không được sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa; hoặc ghi âm lời nói, ghi hình ảnh của người tham gia tố tụng mà không được sự đồng ý của họ trong phiên tòa xét xử vụ án dân sự, vụ án hành chính...
Người đến tham dự phiên tòa cũng bị phạt tiền 500.000 đến một triệu đồng nếu vi phạm một trong các hành vi: Không chấp hành việc kiểm tra an ninh; gây rối tại phòng xử án; không tôn trọng HĐXX. Ngoài ra, ăn uống, hút thuốc, gây mất trật tự, ăn mặc không nghiêm túc... khi tham dự phiên tòa cũng có thể bị cảnh cáo hoặc phạt tiền đến 500.000 đồng.
Hết hạn chi trả hỗ trợ lao động từ Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp
Theo Nghị quyết 24/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ được sử dụng 1.155 tỷ đồng từ kết dư Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp để tiếp tục hỗ trợ lao động đã nộp hồ sơ, nhưng chưa nhận được tiền.
Theo thống kê của Chính phủ, sau ngày 31/12/2021 - hạn cuối giải ngân gói hỗ trợ người lao động, doanh nghiệp bị ảnh hưởng bởi Covid-19, vẫn còn hơn 414.000 lao động đủ điều kiện hưởng 1,8-3,3 triệu đồng dù đã nộp hồ sơ đúng thời hạn. Nguyên nhân là kê khai sai thông tin nên không liên lạc được; thông tin hỗ trợ chưa chính xác hoặc có nguyện vọng đổi hình thức nhận tiền...
Các cơ quan sẽ chi trả cho người lao động chậm nhất là ngày 10/9 để Chính phủ báo cáo kết quả tại phiên họp tháng 9 của Thường vụ Quốc hội. Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội và đoàn đại biểu Quốc hội giám sát việc thực hiện.
Đến tháng 3/2022, gói hỗ trợ đã chi cho gần 13 triệu lao động, giải ngân 30.800 tỷ đồng. Hơn 346.800 doanh nghiệp được giảm đóng Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp, tương ứng gần 11,5 triệu lao động với số tiền giảm đóng khoảng 4.400 tỷ đồng.
Ký gửi hàng trên xe khách phải cung cấp số căn cước công dân
Nghị định 47/2022 có hiệu lực từ 1/9 quy định đơn vị kinh doanh vận tải hành khách, lái xe, nhân viên phục vụ trên xe (nếu có) khi nhận hàng hóa ký gửi ôtô phải yêu cầu người gửi cung cấp: Tên hàng, cân nặng (nếu có), họ và tên, địa chỉ, số chứng minh thư hoặc căn cước công dân, số điện thoại liên hệ của người gửi và người nhận.
Ngoài ra, Nghị định 47 cũng bổ sung quy định không sử dụng ôtô cải tạo từ xe có sức chứa từ 10 chỗ trở lên thành xe dưới 10 chỗ (kể cả người lái xe) để kinh doanh vận tải hành khách (xe limousine). Không sử dụng ôtô kiểu dáng tương tự xe từ 9 chỗ (kể cả người lái xe) trở lên để kinh doanh vận tải hành khách bằng xe taxi.
Những xe limousine được cải tạo và cấp phù hiệu, biển hiệu trước ngày 1/9 vẫn được tiếp tục sử dụng để chở khách cho đến khi hết niên hạn sử dụng. Còn những xe limousine được cải tạo từ ngày 1/9 sẽ không được cấp phù hiệu để kinh doanh vận tải hành khách.
Giảm 50% phí khai thác thông tin trên cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư
Theo Thông tư 48/2022 của Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 17/9, tổ chức có nhu cầu khai thác thông tin không thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, cá nhân có nhu cầu khai thác thông tin không phải của mình trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư phải trả phí khai thác và sử dụng thông tin.
Cụ thể, xác thực thông tin công dân bằng tin nhắn SMS, văn bản điện tử, văn bản giấy; tin nhắn SMS trả lời kết quả thông tin đề nghị khai thác; văn bản điện tử trả lời kết quả thông tin đề nghị khai thác qua cổng dịch vụ công; văn bản giấy trả lời kết quả thông tin đề nghị cung cấp sẽ mất phí 1.000 đồng/trường hợp. Tuy nhiên, trong thời gian từ 17/9/2022 đến hết 31/12/2023, tổ chức, cá nhân chỉ phải trả 50% mức phí nêu trên.
Theo https://vnexpress.net/chinh-sach-noi-bat-co-hieu-luc-tu-thang-9-4505407.html
BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ĐOÀN