Nội dung tải tại đây: /uploads/news/2019_07/tl-sinh-hoat-chi-doan-thang-7.2019-1.doc
BÁC HỒ VỚI THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã ghi dấu mốc son lịch sử hào hùng ở thế kỷ XX- nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh thắng hai tên thực dân đế quốc hung hãn, tàn bạo nhất là Pháp và Mỹ để giành thắng lợi trọn vẹn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đưa cả nước bước vào thời kỳ đổi mới, xây dựng đất nước theo con đường XHCN. Trong cuộc chiến đấu ấy, quân và dân ta đã không tiếc máu xương, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, nhiều người con ưu tú của dân tộc đã hy sinh cả tuổi xuân, hoặc một phần thân thể cho sự nghiệp độc lập, tự do của Tổ quốc. Tổ quốc, nhân dân ta đời đời ghi nhớ công lao của các liệt sĩ, thương binh ấy.
Đặc biệt với Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người càng hiểu rõ giá trị nhân văn của sự hy sinh của các liệt sĩ, các thương binh đối với dân tộc, với đất nước, Người nói:“
máu đào của các liệt sĩ đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói, sự hy sinh của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn liệt sĩ”(1)
. Người nhắc: “
Bổn phận của chúng ta là phải đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ, để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”(2)
.
Tháng 8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước VNDCCH ra đời. Ngay sau đó nhân dân ta lại phải bước vào một cuộc kháng chiến không cân sức do sự quay trở lại xâm lược của thực dân Pháp và các thế lực thù địch núp dưới danh nghĩa quân đồng minh. Chính phủ, nhân dân ta kiên quyết đấu tranh bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ nền độc lập, tự do của dân tộc. Đời sống nhân dân, nhất là bộ đội, chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn. Trong tình hình ấy Đảng và Nhà nước đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh, liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh và gia đình liệt sĩ.
- Tháng 11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra thông báo nhận con các liệt sĩ làm con nuôi: "
vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền tự do, độc lập và thống nhất của nước nhà, hoặc là trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho các gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi”(3)
.
- Tháng 1/1947, khi nghe tin chiến sĩ Vũ Văn Thành, con trai bác sỹ Vũ Đình Tụng đã anh dũng hy sinh trong một trận chiến đấu ác liệt ở khu vực Chợ Hôm (Hà Nội), Bác đã gửi thư thăm hỏi tới gia đình, chia sẻ nỗi đau như chính con ruột của mình. Trong thư có đoạn: "
Thưa ngài, tôi được báo cáo rằng con giai của Ngài đã oanh liệt hy sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là đại gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu tôi. Mất một thanh niên thì hình như tôi đứt một đoạn ruột... Những thanh niên đó là anh hùng dân tộc, đồng bào và Tổ quốc sẽ không bao giờ quên ơn họ”(4)
. Bác sỹ Vũ đình Tụng kể lại: Tự nhiên tôi thấy nỗi đau thương và sự mất mát của gia đình tôi trở thành nhỏ bé trong cái tình thương mênh mông và sự hi sinh cao cả của Bác Hồ, của cả dân tộc. Tôi nhìn rất rõ mình sẽ phải làm gì để xứng đáng với sự hy sinh của các con tôi và khỏi phụ lòng Bác
- Ngày 16/2/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 20 về chế độ “Hưu bổng, thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”. Đây là văn bản đầu tiên của Đảng và Nhà nước ta về chế độ ,chính sách đối với thương binh, thân nhân liệt sĩ. Tiếp đó, ngày 19/7/1947 Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập Bộ Thương binh, cựu binh (nay là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội). Ngày 3/10/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Sắc lệnh số 101 về thành lập Sở, Ty thương binh, cựu binh ở khu, tỉnh.
Đặc biệt tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị chọn một ngày trong năm làm ngày thương binh toàn quốc để nhân dân có dịp tỏ lòng biết ơn, yêu mến thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị gồm đại biểu các cơ quan, các ngành ở Trung ương, khu và tỉnh Thái Nguyên đã họp ở xã Phú Minh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên và nhất trí lấy ngày 27-7 hàng năm làm ngày “Thương binh toàn quốc”.
Khoảng 18h ngày 27/7/1947, đại diện Đảng bộ Việt Minh, Hội phụ nữ, Đoàn thanh niên, Nha thông tin, Cục Chính trị quân đội, chính quyền huyện Đại Từ, bộ đội, nhân dân địa phương đã mít tinh để nghe công bố bức thư đầu tiên Bác Hồ gửi Ban thường trực của Ban tổ chức ngày Thương binh và ghi nhận sự ra đời “ngày Thương binh toàn quốc”. Đầu thư Bác viết:
Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta. Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh… Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy… Cuối thư Bác vận động đồng bào nhường áo, sẻ cơm giúp đỡ thương binh. Riêng Bác đã gửi tặng một chiếc áo lụa của chị em Hội phụ nữ biếu Người, một tháng lương của Người, tiền một bữa ăn của Người và các nhân viên trong Phủ Chủ tịch (tổng cộng 1.127 đồng).
Từ đó hàng năm cứ đến ngày “Thương binh-Liệt sĩ” bao giờ Bác cũng gửi thư thăm hỏi tới thương binh, gia đình liệt sĩ, tới các đơn vị điều dưỡng và các cán bộ phụ trách để nhắc nhở việc chăm sóc chu đáo các thương bệnh binh và gia đình liệt sĩ .Cùng với những lời thăm hỏi động viên tinh thần là những món quà vật chất, khi là chiếc áo, khi là tấm khăn. Đặc biệt Bác thường gửi trọn tháng lương của mình vào dịp này tặng thương binh. Những món quà vật chất, tinh thần ấy đã khích lệ, tiếp thêm nhiều nghị lực cho các đồng chí thương binh.
Không những thế, giữa bộn bề công việc, Người vẫn dành thời gian nhiều lần đến thăm anh em thương binh tại các trại điều dưỡng, bệnh viện hoặc đón tiếp họ tại nơi ở và làm việc của Người.
Đêm giao thừa năm 1956, Bác đến thăm Trường thương binh hỏng mắt Hà Nội. Trong lúc mọi người đang tập trung ở hội trường để chờ đón nghe thư chúc tết của Bác Hồ thì có tin Bác đến. Ai cũng nghĩ không có nguồn động viên nào lớn hơn thế. Bác hỏi thăm tình hình sức khoẻ, cuộc sống và chúc tết anh em nhân dịp năm mới: “
Các chú tàn nhưng không phế”. Lời động viên của Bác đã trở thành khẩu hiệu hành động, phương châm sống của các đồng chí thương binh. Từ đó nhiều đồng chí đã nỗ lực học tập để nâng cao trình độ như anh Đinh Công Cẩn, Vương Nguyên Khoa, Huỳnh Đình Thảo đã tốt nghiệp đại học Tổng hợp văn, nhiều đồng chí tốt nghiệp cấp III, đặc biệt có nhiều anh đã quên đi ý định “quyên sinh” sau lần gặp Bác.
Các chị Trần Thị Lý, Nguyễn Thị Kim Cúc, Huỳnh Thị Kiển là những thương binh nặng, bị địch tra tấn dã man. Và rất nhiều người con của miền Nam, miền Bắc là thương binh, là anh hùng dũng sĩ đã được Bác đón tiếp ân cần, thân mật tại nhà riêng trong khu Phủ Chủ tịch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn công việc đền ơn đáp nghĩa với thương binh, gia đình liệt sĩ phải trở thành phong trào rộng khắp, là trách nhiệm của các cấp ,các ngành, của toàn xã hội “chứ không phải là việc làm phúc”. Cho nên vào các dịp kỷ niệm như: ngày thành lập Đảng, ngày thành lập nước, ngày kháng chiến toàn quốc… Bác không bỏ sót một cơ hội nào để nhắc nhở mọi người và tự nhắc mình “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”.
- Năm 1948, Người đề xuất với Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam thành lập các “Hội mẹ chiến sĩ”, “Hội ủng hộ thương binh”. Hoạt động của hội rất thiết thực, gắn bó tình quân dân thắm thiết, hết lòng chăm sóc giúp đỡ bộ đội, thương binh bằng tấm lòng cao cả nhân ái của các mẹ, các chị.
- Với các cháu thiếu nhi, Người gợi ý thành lập những "Đội Trần Quốc Toản" không phải để đi đánh giặc và lập được nhiều chiến công, mà cốt để tham gia kháng chiến bằng cách: trong nhóm giúp đỡ nhau học tập khi rảnh thì giúp đồng bào... sức các cháu làm được việc gì thì giúp việc ấy, ví dụ quét nhà, gánh nước, lấy củi, giữ em, dạy chữ quốc ngữ... Như thế các cháu rèn luyện được tinh thần siêng năng và bác ái.
- Năm 1951 Bác đề xướng một hình thức giúp đỡ thương binh rất thiết thực cho các địa phương. Tuỳ theo sự cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà
đón một số thương binh về làng, để giúp lâu dài chứ không phải giúp bằng cách góp gạo nuôi thương binh. Cách làm như sau: mỗi xã trích một phần ruộng công, nếu không có ruộng công thì mượn ruộng của những đồng bào có hằng tâm, hằng sản; nếu không mượn được ruộng thì chính quyền đoàn thể, đồng bào trong xã chung sức phát vỡ một số đất mới, tổ chức việc cày cấy, chăm nom, gặt hái những ruộng đất ấy. Hoa lợi để nuôi thương binh... Anh em thương binh sẽ tuỳ sức mà làm những công việc nhẹ như học may, đan lát, hớt tóc, hoặc giúp việc phòng giấy... Như thế thì đồng bào mỗi xã được thoả mãn lòng ước ao báo đáp anh em thương binh, mà anh em thương binh thì được yên ổn về vật chất, vui vẻ về tinh thần và có dịp tham gia hoạt động ích lợi cho xã hội.
Cùng với việc kêu gọi, yêu cầu trách nhiệm của toàn xã hội đối với anh em thương binh, gia đình liệt sĩ. Người cũng nhắc nhở trách nhiệm của anh em thương binh với xã hội: “
Các chú là những chiến sĩ đã được quân đội nhân dân rèn luyện về đạo đức và kỷ luật cách mạng, là những người con đã hy sinh một phần xương máu để bảo vệ nước nhà. Vậy các chú cần phải giữ vững truyền thống tốt đẹp và vẻ vang của quân đội cách mạng là: giữ gìn kỷ luật đoàn kết chặt chẽ, thật sự đoàn kết thương yêu giữa anh em thương binh với nhau; giữa thương, bệnh binh với cán bộ và nhân viên giúp việc ở trại, giữa thương bệnh binh với đồng bào xung quanh, mỗi thương, bệnh binh cần tự giác, hoà mình với nhân dân, tôn trọng nhân dân tránh phiền nhiễu nhân dân, tránh tâm lý công thần coi thường lao động, coi thường kỷ luật, chớ bi quan chán nản, phải luôn luôn cố gắng..."(5)
.
Tình cảm của Bác Hồ đối với thương binh, liệt sĩ thật vô bờ bến. Nó vừa là trách nhiệm của người đứng đầu Nhà nước vừa là tình cảm của người chủ gia tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra đi khi hoài bão lớn nhất của Người chưa trọn vẹn - Tổ quốc chưa thống nhất, nhưng Người vẫn khẳng định: Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà. Trước khi về với thế giới người hiền, trong khi về việc riêng Người không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là “
không được phục vụ cách mạng lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”, thì Người vẫn nghĩ đến các liệt sĩ, các thương binh. Trong di chúc, Người căn dặn:
- Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...) Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần "tự lực cánh sinh".
- Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta.
- Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương phải giúp đỡ họ có công việc làm ăn thích hợp quyết không để họ bị đói rét.
Tổng kết sau 2 cuộc kháng chiến, cả nước có :1.100.000 liệt sĩ; 600.000 thương binh; 300.000 người mất tích; 2.000.000 người tàn tật; 2.000.000 người nhiễm chất độc; 500. 000 trẻ em dị dạng (6).
Thực hiện lời dạy của Bác Hồ, từ khi thống nhất đất nước, bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế, cả nước đã thu được nhiều thành tựu đáng kể về nhiều mặt. Các hoạt động tình nghĩa đã có những đổi mới về chất, đi vào chiều sâu. Công tác “đền ơn đáp nghĩa” đã trở thành phong trào quần chúng rộng lớn, được xã hội hoá và hướng vào các hoạt động thiết thực. Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách ưu đãi, thích hợp với thương binh và thân nhân liệt sĩ. Theo số liệu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, kể từ năm 1995 đến nay, Nhà nước ta đã phong tặng 2.600.000 người có công với cách mạng; 49.718 phụ nữ danh hiệu “ Bà mẹ Việt Nam anh hùng”; trao tặng 231.373 nhà tình nghĩa và 628.927 sổ tiết kiệm tình nghĩa... Các chương trình như: Đón thương binh nặng về địa phương; chương trình xây dựng,tu bổ nghĩa trang liệt sĩ; xây dựng nhà bia ghi công các liệt sĩ; chương trình củng cố các cơ sở sản xuất của thương binh và người tàn tật, chương trình xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”… được triển khai sâu rộng, đã thực sự mang lại những ý nghĩa to lớn cả về chính trị và xã hội. Đó là cách tốt nhất để chúng ta tri ân các thương binh và gia đình liệt sĩ theo lời căn dặn của Bác Hồ.
Chú thích:
(1).
Những lời kêu gọi của Hồ chủ tịch, NXb Sự thật, H.1962, tr.7.
(2). Hồ Chí Minh:
Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, t.7
(3). Hồ Chí Minh:
Toàn tập, Sđd, t.7, tr.435
(4). Bản lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
(5). Hồ Chí Minh:
Toàn tập, Sđd, tr4,89.
(6).
Chiến tranh cách mạng Việt Nam 1945-1975 thắng lợi và bài học, Nxb Quân đội Nhân dân, tr 582,583.
Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm và chúc Tết anh, chị em trường thương binh hỏng mắt, Hà Nội (1956)
Nguồn: Khu di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
THEO DÒNG LỊCH SỬ
Những ngày đáng nhớ trong tháng 7:
-------
- 02/7/1976: Kỷ niệm Ngày nước ta đổi quốc hiệu từ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- 11/7: Kỷ niệm Ngày Dân số thế giới.
- 15/7/1950: Kỷ niệm Ngày truyền thống thanh niên xung phong.
- 17/7/1966: Ngày Hồ Chủ tịch ra lời kêu gọi “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
- 20/7/1954: Ngày ký hiệp định Giơnevơ.
- 27/7/1947: Kỷ niệm Ngày thương binh, liệt sĩ.
- 28/7/1929: Kỷ niệm Ngày thành lập Công đoàn Việt Nam.
02/7/1976: NGÀY NƯỚC TA ĐỔI QUỐC HIỆU TỪ VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA THÀNH CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
|
- 28/7/1929: Kỷ niệm Ngày thành lập công đoàn Việt Nam.
Với thắng lợi rực rỡ của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của cả nước, kỳ họp đầu tiên của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được triệu tập vào tháng 6/1976.
Thủ đô Hà Nội, Hội trường Ba đình cờ hoa rực rỡ, tưng bừng chào đón những vị đại biểu của Nhân dân trong cả nước. 492 đại biểu của 38 tỉnh và thành phố trên khắp mọi miền của đất nước về dự họp đã thật sự trở thành hình ảnh tiêu biểu, linh động của toàn dân Việt Nam, sum họp một nhà.
Trong buổi sáng ngày 25/6, Quốc hội đã nghe đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, đọc Báo cáo chính trị quan trọng “Toàn dân đoàn kết xây dựng Tổ quốc Việt Nam thống nhất xã hội chủ nghĩa”. Thay mặt Trung ương Đảng, đồng chí Lê Duẩn đã trình bày trước cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất về tình hình và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ của Nhà nước Việt Nam thống nhất và những nguyên tắc cơ bản của chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, phương châm và phương thức công tác của Nhà nước nhằm thực hiện nguyên tắc: Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý; phương hướng và cách tiến hành xây dựng Hiến pháp mới của nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong khi chưa có Hiến pháp mới.
Trong những phiên họp cuối cùng, Quốc hội đã thông qua những nghị quyết và văn kiện hết sức quan trọng của nước Việt Nam Độc lập, Thống nhất và Xã hội chủ nghĩa.
Trước hết, Nghị quyết về tên nước, quốc kỳ, quốc huy, thủ đô, quốc ca với toàn văn như sau:
Quốc hội nước Cộng hòa Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam, sau khi thảo luận đề nghị của Đoàn Chủ tịch kỳ họp Quốc hội, quyết nghị:
1. Việt Nam là một nước độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa lấy tên là nước Cộng hòa xã chủ nghĩa Việt Nam.
2. Quốc kỳ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh.
3. Quốc huy nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam hình tròn, nền đỏ, ở giữa có ngôi sao vàng năm cánh, xung quanh có bông lúa, ở dưới có nửa bánh xe răng cưa và dòng chữ “Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam”
4. Thủ đô nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Hà Nội.
5. Quốc ca nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là bài “Tiến quân ca”
Với niềm phấn khởi và tin tưởng dạt dào, toàn thể Quốc hội đã hoàn toàn nhất trí thông qua Nghị quyết, hoàn toàn nhất trí đặt tên nước ta là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tiếp đó Quốc hội đã thông qua các Nghị quyết quan trọng khác.
Ngày 02/7/1976, nước Việt Nam mang tên mới: Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngày bắt đầu chương mới huy hoàng của lịch sử Việt Nam. Từ Văn Lang, Âu Lạc, Vạn xuân và Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường lịch sử đầy chông gai nhưng cũng đầy khí phách anh hùng, chiến thắng vẻ vang.
Chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã làm tròn sứ mệnh lịch sử quang vinh.
Ngày nay nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời với nhiệm vụ đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhân dân ta, dân tộc ta có đầy đủ mọi khả năng và nghị lực để thực hiện nhiệm vụ vĩ đại đó, giành thắng lợi hoàn toàn cho chủ nghĩa xã hội, như tuyến bố của Quốc hội đã khẳng định.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
LỊCH SỬ, Ý NGHĨA VÀ CHỦ ĐỀ NGÀY DÂN SỐ THẾ GIỚI 11/7
|
Ngày 11/7/1987, lúc 6h35’ (giờ Anh), cậu bé người Nam Tư Matej Gašpar ra đời tại thành phố Zagreb (nay là thủ đô của Croatia) và đây cũng là công dân thứ 5 tỷ của Thế giới.
Đứng trước sự gia tăng dân số quá nhanh, vấn đề dân số làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng dân số, môi trường sinh thái và tài nguyên thiên nhiên. Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) với tầm nhìn chiến lược về dân số đã tổ chức Hội nghị Quốc tế về dân số ở thủ đô Hà Lan vào tháng 11 năm 1989, tại diễn đàn Dân số thế giới này đã quyết định lấy ngày sinh của bé Matej Gašpar là ngày 11/7 làm "Ngày Dân số thế giới" nhằm nhắc nhở các quốc gia và mỗi người sống trên trái đất về nguy cơ dân số tǎng quá nhanh, con người không đủ điều kiện sống với đầy đủ quyền chính đáng như: quyền học hành, có việc làm, đủ dinh dưỡng, nhà ở, bảo vệ sức khoẻ… Trên cơ sở đó, mỗi quốc gia, mỗi người tự liên hệ với dân số của địa phương mình để có suy nghĩ và hành động đúng trong hành vi dân số mà tìm mọi biện pháp tích cực, góp phần giảm sự gia tăng dân số, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống, chất lượng dân trí và cải tạo môi trường sinh thái.
Hằng năm, nhân Ngày Dân số Thế giới, Quỹ dân số Liên Hiệp Quốc lựa chọn một chủ đề cấp thiết mang tính toàn cầu để kêu gọi sự quan tâm chú ý của toàn nhân loại. Nhiều năm trước, Hội nghị Quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD) cũng đã kêu gọi tiếp cận phổ cập tới sức khỏe sinh sản vào năm 2015 bao gồm: kế hoạch hóa gia đình tự nguyện, hỗ trợ sinh nở và dự phòng các nhiễm khuẩn qua đường tình dục, bao gồm cả HIV/AIDS.
Ở nước ta, nhân kỷ niệm Ngày Dân số Thế giới, nhằm nhắc nhở các cấp, các ngành, các đoàn thể và quần chúng nhân dân có những hoạt động thiết thực ra sức thực hiện các giải pháp và mục tiêu về dân số, không ngừng góp phần cùng Thế giới hạn chế sự gia tăng dân số góp phần làm cho gia đình hạnh phúc và dân giàu, nước mạnh.
Nguồn: baothaibinh.com.vn
15/7/1950: NGÀY TRUYỀN THỐNG THANH NIÊN XUNG PHONG
|
“Thanh niên xung phong là một biểu tượng sáng ngời của thanh niên Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng mở đầu cuộc cách mạng tháng tám vĩ đại năm 1945.
Trong hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, lực lượng thanh niên xung phong nêu cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, đã góp phần cống hiến quý báu vào thắng lợi huy hoàng, hoàn thành độc lập dân tộc, thống nhất tổ quốc, thực hiện ước mơ của bao thế hệ người Việt Nam”.
(Phạm Văn Đồng – trích trong tập sách “Thanh niên xung phong- những trang oanh liệt”-NXB, Thanh niên, 1996)
Ngày 15/7/1950, thực hiện chỉ đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Đoàn thanh vận Trung ương quyết định thành lập đội thanh niên xung phong công tác Trung ương đầu tiên phục vụ chiến dịch Biên Giới. Ban chỉ huy lâm thời của đội gồm 5 đồng chí, do đồng chí Vương Bích Vượng, uỷ viên ban chấp hành Đoàn thanh niên cứu quốc là đội trưởng và bí thư chi bộ. Đội có 225 đội viên đầu tiên, được tổ chức thành 3 liên đội.
Qua từng thời kỳ, để đáp ứng nhu cầu thực tế của tình hình đất nước, lực lượng thanh niên xung phong đã nhiều lần đổi tên:
Đội thanh niên xung phong công tác Trung ương (15/7/1950)
Đội thanh niên xung phong (26/3/1953)
Đoàn thanh niên xung phong Trung ương (12/1963)
Đội thanh niên xung phong chống Mỹ cứu nước (21/6/1965)
Lực lượng thanh niên xung phong giải phóng miền Nam (20/4/1964)
Ban thanh niên xung phong – Lao động trẻ (3/1986)
“Trong sự nghiệp chống nghèo nàn, lạc hậu, tiến lên thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng thanh niên xung phong đã phát huy sức mạnh vô song, với những hoài bão và bản lĩnh của tuổi trẻ, đi đầu trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội như: tham gia vào các chương trình, dự án: phủ xanh đất trồng trọt, nước sạch cho nông thôn, sử dụng mắt nước, bãi bồi ven biển, ánh sáng văn hoá, dạy nghề, giới thiệu việc làm…. với ý chí và nghị lực, thực hiện lời dạy của Bác Hồ: không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắc làm nên”. (Phạm Văn Đồng)
Thể theo nguyện vọng của đông đảo cán bộ, đội viên thanh niên xung phong các thế hệ, theo đề nghị của Uỷ Ban Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh, ngày 30/6/1995, thủ tướng chính phủ đã ra quyết định số 382/TTG quy định lấy ngày 15/5 hàng năm làm ngày truyền thống của lực lượng thanh niên xung phong Việt Nam.
Nhân dịp này, ban chấp hành Trung ương Đảng đã tặng lực lượng thanh niên xung phong bức trướng mang dòng chữ: “Thanh niên xung phong - Chiến đấu dũng cảm - Lao động sáng tạo - Lập công xuất sắc”.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
17/7/1966: NGÀY HỒ CHỦ TỊCH RA LỜI KÊU GỌI
“KHÔNG CÓ GÌ QUÝ HƠN ĐỘC LẬP, TỰ DO”
|
Độc lập, tự do là khát vọng ngàn đời của dân tộc ta. Độc lập, tự do bắt nguồn từ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Khát vọng độc lập, tự do đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc rút trong câu nói nổi tiếng: Không có gì quý hơn độc lập, tự do!.
Ngày 17/7/1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc, trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”.
Lời kêu gọi như một lời hịch hiệu triệu toàn dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiến lên giành chiến thắng. Lời kêu gọi là một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trong thế kỷ XX.
Đầu năm 1965, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ đã bị quân và dân ta đánh bại. Tuy vậy, Mỹ vẫn chưa chịu từ bỏ cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chúng chuyển sang thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, tăng cường quân chiến đấu Mỹ vào miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc bằng sức mạnh không quân và hải quân Mỹ, hòng buộc phía Việt Nam phải ngồi vào đàm phán theo điều kiện ép buộc của Mỹ. Mùa hè năm 1965, Quân Mỹ và quân đồng minh của Mỹ: Nam triều Tiên, Úc, Niu Di lân, v.v… ồ ạt đổ bộ vào miền Nam Việt Nam. Đến tháng 6 năm 1966, đội quân đó đã lên đến 30 vạn, trong đó có nhiều sư đoàn, lữ đoàn tinh nhuệ của Mỹ trở thành lực lượng chiến lược chủ yếu, trực tiếp tiến hành chiến tranh. Trên miền Bắc, cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân Mỹ từng bước được mở rộng về quy mô và cường độ với tuyên bố: Đưa miền Bắc quay trở lại thời kỳ đồ đá. Trên trường quốc tế, Mỹ triệt để lợi dụng mâu thuẫn Xô - Trung và mở “Chiến dịch hòa bình” hòng cô lập Việt Nam. Trong nước, chính quyền Mỹ thi hành các biện pháp bưng bít thông tin, không gọi lính trù bị, không tăng thuế, với hy vọng duy trì được sự ổn định nội bộ, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của Quốc hội và nhân dân Mỹ với chiến tranh Việt Nam.
Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chuyển toàn bộ hoạt động của miền Bắc từ thời bình sang thời chiến, tiếp tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện có chiến tranh, quyết tâm đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, phát huy vai trò hậu phương lớn với tiền tuyến lớn miền Nam, đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, và làm tròn nghĩa vụ quốc tế với cách mạng hai nước Lào và Campuchia. Để tinh thần đó thấu suốt đến toàn dân, toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong cuộc chiến tranh này, đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Mỹ đã chi trực tiếp cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam tới gần 700 tỉ USD ( nếu tính cả chi phí gián tiếp thì lên tới gần 1.000 tỉ USD gấp gần 3 lần số tiền Mỹ chi trong cuộc chiến tranh thế giới hai (khoảng 341 tỉ USD) và gấp 20 lần Mỹ chi các cuộc chiến tranh ở Triều Tiên (khoảng 54 tỉ USD…), Mỹ đã huy động tới 70% lục quân, 60% lính thuỷ đánh bộ; 40% hải quân và 60% không quân của nước Mỹ, với hơn 6,5 triệu lượt thanh niên trực tiếp tham gia chiến tranh ở Việt Nam cùng với 22.000 xí nghiệp quốc phòng trên nước Mỹ trực tiếp phục vụ chiến tranh ở Việt Nam.
Mỹ đã sử dụng 15 triệu tấn bom đạn các loại ném xuống chiến trường Việt Nam, cùng hàng chục triệu lít chất độc màu da cam mà chúng thả xuống chủ yếu ở chiến trường Việt Nam, làm 17% diện tích ở nước ta bị phơi nhiễm, gần 5 triệu nạn nhân phải mang dị tật suốt đời và còn ảnh hưởng nhiều đến cả thế hệ con cháu họ trong tương lai. Trong chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, bình quân mỗi người phải chịu 45,5 kg bom đạn, tính ra 1 km2 chịu 6 tấn bom đạn. Với tinh thần “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, miền Bắc xã hội chủ nghĩa đã dốc lòng, dốc sức chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam.
Trải qua chiến tranh ác liệt, nhân dân ta càng thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Một lần nữa câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, có độc lập tự do thì sẽ có tất cả. Đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân không thể có cơm ăn, áo mặc và cuộc sống hạnh phúc nếu không có độc lập tự do. Và càng muốn có độc lập tự do thì các dân tộc bị áp bức không thể ngồi yên chờ đợi, càng không thể trông chờ vào sự “ban ơn” của các thế lực đế quốc, thực dân. Muốn có cuộc sống ấm no hạnh phúc thực sự thì vấn đề quyết định trước hết phải giành cho được độc lập tự do, phải vùng lên xóa bỏ mọi xiềng gông, xóa bỏ mọi áp bức, nô dịch…
Chính vì những giá trị to lớn ấy của độc lập tự do nên khi độc lập tự do bị xâm phạm, thì cả dân tộc phải kiên quyết đứng lên chiến đấu đến cùng để giữ vững, bảo vệ nền độc lập ấy. Thể hiện ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập tự do trong những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “… Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Để bảo vệ độc lập tự do của dân tộc, nhân dân Việt Nam đã chiến đấu kiên cường, nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Ý chí “Không có gì quý hơn độc lập tự do” đã thực sự là động lực tinh thần to lớn thôi thúc lớp lớp thế hệ người Việt Nam lên đường chiến đấu chống kẻ thù xâm lược, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” và đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” tiếp tục làm sáng tỏ thêm trách nhiệm của Đảng, Nhà nước ta, vừa coi phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân là nhiệm vụ trung tâm, vừa phải tăng cường quốc phòng, an ninh. Phát huy sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời của Tổ quốc. Nêu cao ý chí tự lực, tự cường, tinh thần độc lập, tự chủ, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn vượt qua mọi thách thức, khắc phục mọi khó khăn, tận dụng cơ hội, tranh thủ thời cơ đưa đất nước tiếp tục tiến lên.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là tư tưởng xuyên suốt của quá trình lịch sử từ những "chiến thắng vĩ đại và huy hoàng" trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc đến những “thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” trong công cuộc đổi mới của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh. Lời kêu gọi của Bác chính là lời non sông đất nước, động viên toàn dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hi sinh vì lí tưởng “độc lập, tự do”.
20/7/1954: NGÀY KÝ HIỆP ĐỊNH GIƠNEVƠ
|
Hiệp định Giơnevơ (Thụy Sỹ) được ký ngày 20/7/1954 về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương, bãi bỏ quyền cai trị của người Pháp, công nhận nền độc lập của ba quốc gia Việt Nam, Lào và Campuchia, chính thức chấm dứt chế độ thực dân Pháp tại Đông Dương.
Tháng 1/1954, ngoại trưởng 4 nước Liên Xô, Mỹ, Anh và Pháp đã họp tại Beclin và quyết định sẽ triệu tập một hội nghị quốc tế ở Giơnevơ để giải quyết hai vấn đề: chiến tranh tại Triều Tiên và lập lại hòa bình ở Đông Dương.
Ngày 26/4/1954, khi Quân đội nhân dân Việt Nam kết thúc chiến dịch tấn công đợt 2 ở Điện Biên Phủ thì Hội nghị Giơnevơ bắt đầu được khai mạc. Tham dự hội nghị có đại diện của: Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc, Anh, Pháp, Mỹ , chính quyền Bảo Đại, Campuchia và Lào. Ban đầu, Hội nghị không bàn ngay về vấn đề Đông Dương, mà về vấn đề chiến tranh Triều Tiên.
17h30 ngày 7/5/1954, tin thất bại của thực dân Pháp ở chiến trường Điện Biên Phủ gửi về Hội nghị từ Đông Dương. Do đó mà sáng ngày 8/5/1954, vấn đề Đông Dương sớm được đưa lên bàn nghị sự. Phái đoàn Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng làm Trưởng đoàn cùng với 2 phái đoàn của Campuchia và Lào chính thức tham gia. Đại diện Chính phủ Việt Nam do ông Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến dự hội nghị với tư thế của một dân tộc chiến thắng. Bản đề nghị 8 điểm nổi tiếng của Phạm Văn Đồng cũng được đưa ra làm cơ sở thảo luận tại Hội nghị, bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến nhân dân các nước thuộc địa và các nước thực dân, đặc biệt là đối với nhân dân và chính phủ Pháp. Lập trường cơ bản của Việt Nam là hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và toàn vẹn lãnh thổ. Nước Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập của Việt Nam và của Lào, Campuchia. Vấn đề thống nhất nước Việt Nam phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài... Những đề nghị hợp tình, hợp lý của Đoàn đại biểu Việt Nam đã được dư luận tiến bộ ở chính nước Pháp và trên thế giới đồng tình ủng hộ.
Nhìn vào thành phần tham gia Hội nghị, Việt Nam có hai đồng minh lớn là Liên Xô và Trung Quốc, nhưng lại phải đấu tranh với 6 bên còn lại. Do lập trường giữa các đoàn có một khoảng cách khá lớn nên các cuộc đàm phán tiến triển rất chậm chạp. Một mặt, Đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiên quyết đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương trên cơ sở các bên phải tham gia công nhận độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia; cô lập bọn chủ chiến ở Pháp và bọn can thiệp Mỹ; làm cho nhân dân Pháp thấy chính phủ Pháp của thủ tướng Laniel lúc bấy giờ là hiếu chiến cần phải thay đổi thì Hội nghị Giơnevơ mới thu được kết quả. Đồng thời, Đoàn Việt Nam phải triệt để tranh thủ sự đồng tình ủng hộ rộng rãi cả trong và ngoài Hội nghị. Trong khi đó, lập trường của các đoàn đại biểu các nước phương Tây là hiếu chiến. Đoàn đại biểu Mỹ âm mưu kéo dài và mở rộng chiến tranh ở Đông Dương, thay chân Pháp xâm lược Đông Dương. Đoàn đại biểu của Vương quốc Anh thì chủ trương ủng hộ Pháp thương lượng trên thế mạnh. Phái chủ chiến của Pháp nhận đàm phán với Việt Nam để tránh búa rìu dư luận và tránh bị nhân dân Pháp lật đổ, đồng thời cứu nguy cho quân đội Pháp ở Đông Dương. Tuy nhiên, Đoàn Pháp và Đoàn Mỹ bị ba đoàn Việt Nam, Liên Xô và Trung Quốc kịch liệt lên án về chủ tâm phá hoại Hội nghị.
Kết quả là, do Đoàn Pháp vẫn giữ lập trường cứng rắn, nội các của thủ tướng Laniel bị nhân dân Pháp lên án, buộc phải từ chức ngày 12/6/1954. Phe chủ chiến ở Pháp bị đánh đổ, Mendès France thuộc phái chủ hòa lập chính phủ mới. Ngày 18/6/1954, khi nhậm chức, ông Mendès France tuyên bố sẽ từ chức, nếu trong vòng một tháng không đạt được ngừng bắn ở Đông Dương. Vào thời điểm này, tại Sài Gòn, Mỹ đã đưa Ngô Đình Diệm về làm thủ tướng thay Bửu Lộc dưới quyền Bảo Đại.
Cuối giai đoạn 1 của Hội nghị, các bên tham gia đàm phán vẫn thăm dò lẫn nhau về giải pháp và đưa ra lập trường của mình mà không đi đến một thỏa thuận thực chất nào. Từ ngày 10 đến 20/7/1954 là giai đoạn cuối cùng của cuộc đàm phán. Các đoàn làm việc rất khẩn trương để giải quyết những vấn đề then chốt. Về vấn đề đình chiến ở Lào và Campuchia, Đoàn Việt Nam đấu tranh quyết liệt, nhưng chỉ giành được khu tập kết cho Phathet Lào ở hai tỉnh, mà không đạt được việc điều chỉnh vùng đóng quân cho Khơme Itsarak.
Về vấn đề giới tuyến phân vùng và thời hạn tuyển cử ở Việt Nam, Đoàn Việt Nam kiên trì vĩ tuyến 16 và tổng tuyển cử sớm. Ngày 19/7/1954, ba đoàn Việt Nam, Liên Xô, Trung Quốc thống nhất đưa cho đoàn Pháp phương án cuối cùng giới tuyến đi qua đường số 9 mười km. Phương án này được Đoàn Việt Nam gợi ý từ tháng 6, nhưng phía Pháp vẫn đòi đi qua vĩ tuyến 18. Tại cuộc họp đêm 20/7/1954, 5 trưởng đoàn Anh, Pháp, Liên Xô, Trung Quốc và Việt Nam vào phút chót mới thỏa thuận lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến phân vùng, và thời hạn tổng tuyển cử ấn định là hai năm.
Trải qua 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp rất căng thẳng, với thiện chí của phái đoàn Việt Nam, ngày 20/7/1954, Hiệp định Giơnevơ về đình chỉ chiến tranh ở Đông Dương được ký kết.
Ba Hiệp định đình chỉ chiến sự ở ba nước và Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị tạo thành khung pháp lý của Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương. Các nước tham gia Hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Theo Hiệp định đã ký kết, nước Việt Nam bị tạm thời chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17, các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh rằng "Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới chính trị hay lãnh thổ". Sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7 năm 1956 bằng tổng tuyển cử "tự do và dân chủ". Quân Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rút khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; người dân có quyền lựa chọn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại. Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Một Ủy ban Giám sát quốc tế gồm có Ba Lan, Ấn Độ và Canađa sẽ giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.
Thắng lợi ở Hội nghị Giơnevơ là thắng lợi trong cuộcđấu tranh ngoại giao bằng việc quán triệt sâu sắc cácnghị quyết của Đảng, bằng đường lối đối thoại độc lập, tự chủ, bằng nội lực của dân tộc và sự khôn khéo tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của dư luận tiến bộ trên thế giới để có bước phá vây quốc tế có kết quả thuận lợi, tạo cục diện quốc tế có lợi cho nước ta trong một bối cảnh phức tạp ở Hội nghị Giơnevơ; là bài học còn mang tính thời sự nóng hổi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN thời kỳ mở cửa kinh tế, hội nhập quốc tế hiện nay.
Nguồn: http://tulieuvankien.dangcongsan.vn
27/7/1947: NGÀY THƯƠNG BINH, LIỆT SĨ
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp sau quân Anh - Ấn, chúng trắng trợn gây nên những vụ xung đột vũ trang ở nhiều nơi thuộc Nam Bộ, Trung Bộ. Tiếp đó, khi vào thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, thực dân Pháp gây ra những vụ bắn phá giết hại dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội….. mở đường cho việc xâm lược cả nước ta.
Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, một số chiến sĩ, đồng bào ta bị thương và hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã dành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bênh binh một cách tận tình chu đáo.
Đầu năm 1946, “Hội giúp binh sĩ tử nạn” sau đổi tên “Hội giúp binh sĩ bị thương” được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên) ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội.
Ngày 28/5/1946, “hội giúp binh sĩ bị nạn” tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát thành phố Hà Nội và Hồ chủ tịch đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi quyên góp ủng hộ quần áo giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận đã được tổ chức, mở đầu cuộc vận động “Mùa đông chiến sĩ”, tại đây Hồ chủ tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ.
Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ đầu của cuốc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
T
háng 6/1947, đại biểu của tổng bộ Việt Minh, Trung Ương hội phụ nữ cứu quốc, Trung Ương đoàn thanh niên cứu quốc, cục Chính Trị Quân Đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện chỉ thị của Hồ chủ tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung Ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ - ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”.
Nguồn: lichsuvietnam.vn
|
28/7/1929: KỶ NIỆM NGÀY THÀNH LẬP CÔNG ĐOÀN VIỆT NAM
|
Ngày 28/7/1929, tổ chức Công đoàn Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với quá trình đấu tranh, phát triển của phong trào công nhân Việt Nam; là hạt nhân vận động, tập hợp giai cấp công nhân đi dưới ngọn cờ cách mạng vinh quang của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong 90 năm qua, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã có những đóng góp quan trọng vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng giai cấp; trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Cuối năm 1924, đầu năm 1925, tại Quảng Châu, đồng chí Nguyễn Ái Quốc, lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam, Người đặt cơ sở lý luận cho công đoàn Việt Nam đã đề ra tôn chỉ mục đích hoạt động của Công Hội, đào tạo hàng loạt cán bộ ưu tú trong tổ chức thanh niên cách mạng đồng chí hội mà nòng cốt là Cộng Sản Đoàn Người cũng đề ra việc “vô sản hoá” - đi vào các xí nghiệp hầm mỏ, đồn điền để vận động giáo dục công nhân vào tổ chức Công Hội.
Cuối năm 1928, đầu năm 1929, nhiều tổ chức Công hội đỏ được thành lập ở các xí nghiệp vá phát triển, dần dần được thống nhất thành tổng Công Hội đỏ cấp tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai).
Ngày 28/7/1929, tại số nhà 15 phố Hàng Nón, Hà Nội, đại hội thành lập tổng Công Hội đỏ miền Bắc đã khai mạc. Đại hội thông qua các nhiệm vụ đấu tranh và điều lệ tóm tắt, quyết định ra tờ báo Lao động và tạp chí Công Hội Đỏ, bầu ban chấp hành.
Tiếp đó, các tổng Công Hội đỏ ở miển Trung, miền Nam, được thành lập. từ năm 1930, tổng Công Hội đỏ đã được hoạt động khắp cả nước. Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Công Đoàn Việt Nam có nhiều tên gọi khác nhau để phù hợp với nhiệm vụ từng giai đoạn:
Công Hội đỏ (1929 – 1935)
Nghiệp đoàn Ái Hữu (1936 – 1939)
Công nhân Phản Đế (1939 – 1941)
Công nhân cứu quốc (1941 – 1945)
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1946 – 1961)
Tổng Công Đoàn Việt Nam (1961 – 1988)
Tổng liên đoàn lao động Việt Nam (1961 đến nay)
Bộ chính trị ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đã quyết định lấy ngày 28/7/1929, ngày họp đại hội thành lập tổng Công Hội đỏ đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam, làm ngày thành lập Công Đoàn Việt Nam. Đại hội đại biểu Công Đoàn toàn quốc lần V (tháng 11/1983) họp tại thủ đô Hà Nội đã nhất trí thông qua nghị quyết lấy ngày 28/7/1929 làm ngày thành lập tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
Trong tác phẩm “Đường Kách mệnh” viết năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của Công hội là: “Tổ chức Công hội trước là để cho công nhân đi lại với nhau cho có cảm tình, hai là để nghiên cứu với nhau, ba là để sửa sang cách sinh hoạt của công nhân cho khá hơn bây giờ, bốn là giữ gìn quyền lợi cho công nhân, năm là để giúp cho quốc dân, giúp cho thế giới”.
Như một tất yếu của lịch sử, các tổ chức Công hội sơ khai ra đời; đặc biệt là tổ chức Công hội Đỏ do người công nhân ưu tú Tôn Đức Thắng (sau này là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa) sáng lập đã đáp ứng yêu cầu cấp thiết của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ 20; tạo một bước ngoặt to lớn trong phong lịch sử trào đấu tranh của công nhân, đó là chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, đã có những đóng góp quan trọng vào phong trào đấu tranh của công nhân thế giới. Bằng con đường “Vô sản hoá”, nhiều tổ chức Công hội Đỏ được thành lập ở các xí nghiệp và phát triển, dần dần được thống nhất thành Tổng Công hội Đỏ cấp tỉnh, thành phố (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Hòn Gai).
Sự ra đời của Công đoàn cách mạnh Việt Nam có ý nghĩa to lớn, đánh dấu sự lớn mạnh của phong trào công nhân và sự trưởng thành của giai cấp công nhân Việt Nam. Khẳng định luận điểm nổi tiếng của Lênin đó là “Giai cấp công nhân ở bất kỳ nơi nào trên thế giới cũng chỉ phát triển và chỉ có thể phát triển bằng con đường Công đoàn, bằng sự tác động qua lại giữa Công đoàn và Đảng của giai cấp công nhân, chứ không thể bằng con đường nào khác’’.
Trong 90 năm qua, tổ chức Công đoàn Việt Nam đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh; đã vận động, tập hợp đông đảo công nhân, viên chức, lao động dưới ngọn cờ cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để có những đóng góp to lớn trong thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược; tổ chức và vận động công nhân, viên chức, lao động hưởng ứng thực hiện các phong trào thi đua yêu nước, góp phần to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nguồn: Công đoàn Công Thương Việt Nam
NHIỀU CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 01/7/2019
|
Trong tháng 07/2019, nhiều chính sách mới có hiệu lực tác động mạnh mẽ đến nhiều người, như: Tăng lương cơ sở lên 1,49 triệu đồng/tháng; Giá vé máy bay trong nước hạng phổ thông tối đa 3,75 triệu đồng…
LAO ĐỘNG - TIỀN LƯƠNG - PHỤ CẤP
Lương cơ sở tăng lên 1,49 triệu đồng/tháng từ 01/7/2019
Nghị định 38/2019/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2019.
Theo đó, kể từ thời điểm này, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng/tháng, cao hơn so với thời điểm hiện tại 100.000 đồng.
Mức lương này được dùng để: Tính lương trong bảng lương, mức phụ cấp và các chế độ cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang; Tính mức phí sinh hoạt, phí hoạt động; Tính các khoản trích và các chế độ được hưởng theo mức lương cơ sở như trợ cấp, phụ cấp…
Lương hưu, trợ cấp BHXH tăng 7,19% từ 01/7/2019
Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/2019/NĐ-CP về điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng.
Cụ thể, từ ngày 01/7/2019, tăng thêm 7,19% trên mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng của tháng 6 năm 2019 đối với các đối tượng như:
- Cán bộ, công chức, công nhân, viên chức và người lao động; quân nhân, công an nhân dân và người làm công tác cơ yếu đang hưởng lương hưu hàng tháng.
- Cán bộ xã, phường, thị trấn đang hưởng lương hưu, trợ cấp hàng tháng.
- Quân nhân, công an nhân dân, người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân, công an nhân dân đang hưởng trợ cấp hàng tháng…
Hướng dẫn tính lương, phụ cấp của cán bộ, công chức
Như đề cập ở trên, từ ngày 01/7/2019, mức lương cơ sở sẽ chính thức tăng lên. Do đó, cách tính lương, phụ cấp của cán bộ, công chức, viên chức cũng sẽ thay đổi.
Thông tư 04/2019/TT-BNV hướng dẫn các tính như sau:
- Mức lương thực nhận = Mức lương cơ sở (1.490.000 đồng/tháng) x hệ số lương.
- Mức phụ cấp thực nhận tính theo lương cơ sở = Mức lương cơ sở (1.490.000 đồng/tháng) x hệ số phụ cấp.
Riêng phụ cấp tính theo % lương hiện hưởng, phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên = (Mức lương hiện hưởng + Phụ cấp chức vụ + Phụ cấp thâm niên) x tỷ lệ % phụ cấp được hưởng. Thông tư này có hiệu lực từ ngày 15/7/2019.
TÀI CHÍNH-NGÂN HÀNG
Internet Banking trên di động không có tính năng nhớ mật khẩu
Đây là yêu cầu mới của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tại Thông tư số 35/2018/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 35/2016/TT-NHNN quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet.
Theo đó, phần mềm Internet Banking trên di động phải xác thực người dùng khi truy cập và không có tính năng ghi nhớ mật khẩu. Trường hợp xác thực sai liên tiếp quá số lần do ngân hàng quy định, phần mềm này phải tự động khóa không cho người dùng tiếp tục sử dụng.
Ngoài ra, yêu cầu chung đối với Internet Banking của các ngân hàng là phải có tính năng bắt buộc khách hàng thay đổi mật khẩu ngay từ lần đăng nhập đầu tiên; khóa tài khoản nếu nhập sai mật khẩu liên tiếp quá số lần do ngân hàng quy định.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 01/7/2019.
Dưới 15 tuổi vẫn được gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng.
Thông tư 48/2018/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép công dân Việt Nam từ đủ 18 tuổi trở lên, công dân từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc không mất năng lực hành vi dân sự được gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng.
Trường hợp công dân Việt Nam bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự hoặc chưa đủ 15 tuổi, việc thực hiện giao dịch tiền gửi tiết kiệm phải thông qua người đại diện theo pháp luật.
Cũng theo Thông tư này, tổ chức tín dụng phải cung cấp một biện pháp để người gửi tiền tra cứu khoản tiền gửi tiết kiệm.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 05/7/2019.
Cư trú tại Việt Nam trên 06 tháng được gửi tiền có kỳ hạn.
Ngày 05/7/2019, Thông tư 49/2018/TT-NHNN về tiền gửi có kỳ hạn sẽ chính thức có hiệu lực.
Thông tư quy định, đối tượng được gửi tiền gửi có kỳ hạn bao gồm: Cá nhân nước ngoài được phép cư trú tại Việt Nam thời hạn từ 6 tháng trở lên; Tổ chức, cá nhân cư trú tại Việt Nam; Cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, cơ quan đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam…
Người gửi tiền gửi có kỳ hạn chỉ được thực hiện thông qua tài khoản thanh toán của chính mình. Việc gửi, nhận tiền gửi có kỳ hạn có thể được thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp hoặc tự mình thực hiện…
GIAO THÔNG
Giá vé máy bay trong nước hạng phổ thông tối đa 3,75 triệu đồng
Khung giá dịch vụ vận chuyển hành khách trên các đường bay nội địa được Bộ Giao thông Vận tải quy định tại Thông tư 17/2019/TT-BGTVT và áp dụng từ ngày 01/7/2019.
Cụ thể, giá vé hạng phổ thông cơ bản cho một chiều đi như sau:
- Đường bay có khoảng cách dưới 500km thuộc nhóm đường bay phát triển kinh tế xã hội là 1,6 triệu đồng, nhóm đường bay khác là 1,7 triệu đồng.
- Đường bay có khoảng cách từ 500km - 850 km có giá tối đa 2,2 triệu đồng;
- Đường bay có khoảng cách từ 850 km - 1.000 km có giá tối đa 2,790 triệu đồng;
- Đường bay có khoảng cách từ 1.000 km - 1.280 km có giá tối đa 3,2 triệu đồng;
- Đường bay có khoảng cách từ 1.280km trở lên có giá tối đa 3,75 triệu đồng.
DOANH NGHIỆP
Điều kiện vay vốn từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
Theo Nghị định 39/2019/NĐ-CP của Chính phủ, doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo được vay vốn của Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa khi đáp ứng các điều kiện như:
- Có dự án, phương án sản xuất, kinh doanh khả thi, khai thác các loại tài sản trí tuệ hoặc công nghệ mới hoặc mô hình kinh doanh mới;
- Đảm bảo nguồn vốn chủ sở hữu tham gia dự án, phương án sản xuất, kinh doanh tối thiểu 20% tổng vốn đầu tư để thực hiện dự án, phương án sản xuất, kinh doanh và phải đảm bảo đủ nguồn vốn để thực hiện dự án, phương án sản xuất, kinh doanh;
- Đáp ứng các quy định về bảo đảm tiền vay.
Mức cho vay đối với mỗi dự án, phương án sản xuất, kinh doanh tối đa là 80% tổng mức vốn đầu tư của từng dự án, phương án. Thời hạn cho vay tối đa không quá 07 năm.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/7/2019.
NÔNG NGHIỆP-LÂM NGHIỆP
Dùng điện để khai thác thủy sản, phạt đến 50 triệu đồng
Từ ngày 05/7/2019, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thủy sản sẽ được áp dụng theo Nghị định 42/2019/NĐ-CP.
Mức phạt đối với hành vi sử dụng điện để khai thác thủy sản được quy định như sau:
- Dùng công cụ kích điện để khai thác thủy sản, đối với trường hợp không sử dụng tàu cá: Phạt từ 03 - 05 triệu đồng
- Dùng kích điện hoặc dùng trực tiếp dòng điện từ máy phát điện trên tàu cá để khai thác thủy sản: Phạt từ 15 - 20 triệu đồng nếu tàu cá dưới 12m; Từ 20 - 30 triệu đồng nếu tàu cá từ 12 - 15m và từ 30 - 40 triệu đồng nếu tàu cá từ 15m trở lên.
- Dùng điện lưới để khai thác thủy sản mà chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự: Phạt từ 40 - 50 triệu đồng.
Ngoài phạt tiền, người có hành vi dùng điện để khai thác thủy sản còn có thể bị tịch thu công cụ kích điện, máy phát điện và ngư cụ; Tước quyền sử dụng Giấy phép khai thác thủy sản từ 03 - 06 tháng…
CÁN BỘ-CÔNG CHỨC-VIÊN CHỨC
3 trường hợp công chức được tuyển dụng không qua thi tuyển
Đây là một trong những nội dung tại Thông tư 03/2019/TT-BNV sửa đổi, bổ sung quy định tuyển dụng công chức, viên chức, nâng ngạch công chức, thăng hạng viên chức.
Cụ thể, 03 trường hợp này là:
- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên, có ít nhất 5 năm công tác ở vị trí việc làm yêu cầu trình độ đào tạo đại học;
- Đã là cán bộ, công chức cấp huyện trở lên được điều động, luân chuyển đến đơn vị sự nghiệp công lập; lực lượng vũ trang, cơ yếu; tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp…
- Là công chức cấp phòng trở lên, được tiếp nhận để bổ nhiệm chức danh lãnh đạo, quản lý.
Ngoài ra, Thông tư này cũng quy định, viên chức chỉ cần đạt từ 50 điểm trở lên với mỗi bài thi trong kỳ thi nâng hạng chức danh nghề nghiệp viên chức thì được coi là trúng tuyển (trước đây là 55 điểm).
Ban hành kèm theo Thông tư này là Mẫu Hợp đồng làm việc mới của viên chức, bao gồm Mẫu Hợp đồng không xác định thời hạn và xác định thời hạn…
Thông tư này của Bộ Nội vụ sẽ có hiệu lực từ ngày 01/7/2019.
HÌNH SỰ
Những hành vi được coi là phạm tội Rửa tiền
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ra Nghị quyết 03/2019/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng Điều 324 của Bộ luật Hình sự về tội Rửa tiền.
Theo đó, người thực hiện một trong các hành vi dưới đây nhằm che giấu nguồn gốc bất hợp pháp của tiền sẽ bị coi là phạm Tội rửa tiền:
- Trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia các giao dịch tài chính, ngân hàng;
- Trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia các giao dịch khác như chơi, kinh doanh casino, trò chơi có thưởng, mua bán cổ vật…
- Dùng tiền, tài sản để thực hiện đầu tư, sản xuất, kinh doanh sản phẩm, cung ứng dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi;
- Dùng tiền, tài sản để làm dịch vụ, xây dựng trường học, bệnh viện hoặc sử dụng dưới danh nghĩa tài trợ, từ thiện, viện trợ nhân đạo hoặc các hoạt động khác.
4 trường hợp bác sĩ quân y bị đình chỉ hành nghề
Chính phủ đã ban hành Nghị định 50/2019/NĐ-CP quy định việc cấp chứng chỉ hành nghề, giấy phép hoạt động đối với người hành nghề khám, chữa bệnh trong Quân đội.
Theo đó, người hành nghề khám, chữa bệnh trong Quân đội thực hiện một trong các hành vi dưới đây nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng đến mức phải thu hồi chứng chỉ hành nghề thì bị đình chỉ hoạt động do sai sót chuyên môn kỹ thuật:
- Vi phạm trách nhiệm trong chăm sóc và điều trị người bệnh;
- Vi phạm quy định chuyên môn kỹ thuật và đạo đức nghề nghiệp;
- Xâm phạm quyền của người bệnh;
- Không thực hiện đúng trách nhiệm của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân và viên chức quốc phòng theo pháp luật có liên quan.
Nghị định này có hiệu lực từ ngày 24/7/2019.
TƯ PHÁP-HỘ TỊCH
Án lệ được áp dụng sau 30 ngày kể từ khi công bố
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ ngày 18/6/2019, có hiệu lực từ ngày 15/7/2019.
Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử.
Bản án, quyết định được đề xuất lựa chọn, phát triển thành án lệ phải được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân tối cao để các Tòa án, chuyên gia, nhà khoa học, cá nhân, tổ chức tham gia ý kiến trong 30 ngày. Án lệ được nghiên cứu, áp dụng trong xét xử sau 30 ngày kể từ ngày công bố.
Nghị quyết này có hiệu lực từ ngày 15/7/2019.
Cập nhật thêm Toàn bộ danh sách văn bản có hiệu lực trong tháng 07/2019.
Nguồn: LuatVietnam
Ban Tuyên giáo Tỉnh Đoàn