Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 9/2020

Thứ hai - 07/09/2020 22:34
Ban Thường vụ Tỉnh Đoàn ban hành Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 9/2020. Đề nghị các Huyện, Thị, Thành Đoàn và Đoàn trực thuộc triển khai đến các cấp bộ Đoàn của đơn vị mình.
Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.
Nội dung Tài liệu sinh hoạt chi đoàn tháng 9/2020 tải tại đây: /uploads/news/2020_09/tai-lieu-sinh-hoat-chi-doan-thang-9.2020.doc
1. KỶ NIỆM 43 NĂM NGÀY VIỆT NAM TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN CHÍNH THỨC CỦA LIÊN HIỆP QUỐC (20/9/1977 - 20/9/2020)
Tổ chức Liên Hiệp Quốc thành lập ngày 24/10/1945 trên cơ sở hiến chương được 51 nước tham gia ký ngày 24/10/1945. Trụ sở đặt tại New York (Mỹ). Mục tiêu của tổ chức Liên Hiệp Quốc là duy trì hoà bình, an ninh quốc tế thông qua những biện pháp tập thể hữu hiệu, ngăn ngừa và loại bỏ những mối đe doạ tới hoà bình, phù hợp với các nguyên tắc công lý và luật pháp quốc tế, các tranh chấp quốc tế hay những tình hình có thể phá hoại nền hoà bình; xây dựng quan hệ hữu nghị giữa các quốc gia trên nguyên tắc tôn trọng quyền bình đẳng giữa các quốc gia, quyền tự do quyết định của các dân tộc, và áp dụng các biện pháp phù hợp để củng cố nền hoà bình thế giới; thực hiện hợp tác quốc tế nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá, nhân đạo, thúc đẩy khuyến khích tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn giáo hay ngôn ngữ; là trung tâm điều hòa các hoạt động của các quốc gia để đạt được các mục tiêu trên.
Liên Hiệp Quốc có các cơ quan chính: đại hội đồng, hội đồng bảo an, ban thư ký, đứng đầu là tổng thư ký Liên Hiệp Quốc. Ngoài ra còn có 16 tổ chức liên chính phủ có hiệp định riêng với Liên Hiệp Quốc, là các tổ chức chuyên môn và có chế độ báo cáo với hội đồng kinh tế - xã hội; cơ quan nguyên tử năng lượng quốc tế (IAEA), tổ chức lãnh đạo quốc tế (ILO), tổ chức nông - lương (FAO), tổ chức văn hoá khoa học và giáo dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO), tổ chức y tế thế giới (WHO), ngân hàng thế giới (WB), quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), tổ chức hàng không dân dụng quốc tế (ICAO). Liên hiệp bưu chính quốc tế (IPU), liên hiệp viễn thông quốc tế (ITU), tổ chức thuỷ văn quốc tế (WMO), tổ chức hàng hải quốc tế (IMO), tổ chức tài sản trí tuệ thế giới (WIPO), quỹ phát triển nông nghiệp quốc tế (IFAD), hiệp định chung về thương mại thế giới (GATT) - (từ 1/1/1995 là tổ chức thương mại thế giới - WTO), tổ chức phát triển công nghiệp Liên Hiệp Quốc (UNIDO).
          Thành viên của Liên Hiệp Quốc có 185 nước (khoá 51 ĐHĐ/LHQ - 1996). Việt Nam là thành viên Liên Hiệp Quốc từ 20/9/1977.
2. KỶ NIỆM 75 NĂM NGÀY NAM BỘ KHÁNG CHIẾN (23/9/1945 - 23/9/2020)
Chỉ 03 tuần lễ sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, ngày 23/9/1945 thực dân Pháp núp dưới bóng quân đội Anh tước vũ khí của quân đội Nhật ở Nam Bộ, âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta lần nữa. 6.000 quân Pháp dựa vào hơn 1 vạn quân Anh đã trắng trợn gây hấn ở thành phố Sài Gòn. Chúng mưu toan chiếm Nam Bộ làm bàn đạp chiếm cả Việt Nam và Đông Dương.
7h sáng ngày 23/9, Xứ uỷ và Uỷ ban hành chính Nam Bộ (sau đổi tên thành Uỷ ban kháng chiến) họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn) có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và tổng bộ Việt Minh tham dự. Hội nghị quyết định phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến chống xâm lược. Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ được thành lập, ra lệnh tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Nam Bộ sục sôi căm thù, nhất tề đứng dậy, xông ra mặt trận quyết chiến với quân xâm lược, mở ra một trang sử oanh liệt mới: Nam Bộ Kháng Chiến.
Chiều 23/9, cả Sài Gòn đình công, không hợp tác với Pháp. Các công sở xí nghiệp, hãng buôn đóng cửa, chợ không họp, xe ngừng chạy. Các ụ chiến đấu mọc lên khắp nơi. Ngay những ngày đầu, quân Sài Gòn đã tiêu hao sinh lực địch và phá huỷ một phần cơ sở vật chất của chúng. Tiếng súng kháng chiến ở Sài Gòn chấn động cả nước. Nhiều tỉnh Nam Bộ đưa lực lượng đoàn viên, thanh niên về góp sức với Sài Gòn chống quân xâm lược. 
Ban thường vụ Trung ương Đảng họp chủ trương đánh mạnh quân Pháp ở Nam bộ, quyết tâm giành thắng lợi ở chiến trường để tạo điều kiện cho việc đấu tranh với quân Tưởng ở ngoài Bắc. Ngày 27/9/1945, chủ tich Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào miền Nam khẳng định quyết tâm kháng chiến của Đảng, chính phủ và nhân dân ta, chỉ rõ mục tiêu chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc. Người nêu cao lẽ sống “thà chết tự do hơn sống nô lệ” của nhân dân ta. Đáp lời kêu gọi của Người, xứng đáng với lòng tin cậy và sự cổ vũ của nhân dân cả nước, nhân dân Nam Bộ vùng dậy dũng cảm đánh trả kẻ địch có trang bị hiện đại, làm thất bại âm mưu của địch, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Tháng 02/1946, thay mặt chính phủ và đồng bào cả nước, chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
          Nguồn: www.baotangtonducthang.com

3. HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
 Những thành tựu về nhận thức lý luận của Đảng trong thời kỳ đổi mới
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, 90 năm qua đất nước ta, dân tộc ta đã trải qua những chặng đường khó khăn, gian khổ, vượt qua nhiều thử thách, hy sinh để giành được những thành tựu to lớn chưa từng thấy, mang lại độc lập, tự do cho dân tộc, hòa bình, thống nhất cho đất nước, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, uy tín và vị thế ngày càng cao của quốc gia trên trường quốc tế.
Nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong 90 năm qua chính là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, trong đó trước hết là khả năng “nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra”. Nói cách khác, những thành tựu to lớn của cách mạng nước ta trong 90 năm qua gắn liền với những thành tựu to lớn về phát triển lý luận. 
Về đặc trưng mô hình chủ nghĩa xã hội
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, nay là Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á ra đời, thực hiện nhiệm vụ quản lý đất nước, tổ chức nhân dân tiến hành cuộc Kháng chiến thần thánh chống thực dân xâm lược Pháp. Chiến thắng Điện Biên Phủ dẫn tới việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, hòa bình lập lại trên miền Bắc, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu quá trình xây dựng, phát triển đất nước quá độ lên CNXH, thực thi đồng thời hai nhiệm vụ: Xây dựng CNXH trên miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trên cơ sở nhận thức lý luận về thời kỳ quá độ và học tập kinh nghiệm của các mô hình XHCN hiện thực trên thế giới, mô hình CNXHcủa Việt Nam cho đến trước Đổi mới bao gồm các đặc trưng chủ yếu: Chế độ xã hội dựa trên nguyên tắc “nhân dân làm chủ tập thể”; nền kinh tế kế hoạch hóa với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu và tập thể về tư liệu sản xuất; tiến hành cách mạng văn hóa để xây dựng phát triển văn hóa, con người mới xã hội chủ nghĩa; nhà nước chuyên chính vô sản với hai chức năng, chuyên chính với kẻ thù giai cấp và xây dựng chế độ mới; các dân tộc đoàn kết, bình đẳng, được đảm bảo điều kiện phát triển với việc thành lập các khu tự trị; xây dựng quan hệ hợp tác quốc tế với các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản, công nhân và nhân dân lao động trên thế giới theo tinh thần quốc tế vô sản; chống thực dân đế quốc và mọi hình thức áp bức dân tộc.
Chiến dịch Hồ Chí Minh mùa xuân năm 1975 thắng lợi, đất nước thống nhất một nhà, cả nước bắt tay vào sự nghiệp xây dựng CNXH trong điều kiện vô vàn những khó khăn, thách thức:Thành phố, làng mạc, cơ sở hạ tầng bị tàn phá, nền kinh tế bị kiệt quệ sau hơn 30 năm chiến tranh khốc liệt;biên giới phía Nam, biên giới phía Bắc đều bị kẻ địch xâm phạm, phá hoại; các quốc gia thù địch bao vây, cấm vận. Đặc biệt, hệ thống XHCN thế giới chia rẽ, suy yếu và đi đến sụp đổ năm 1991 đã đặt Việt Nam vào hoàn cảnh vô cùng khắc nghiệt. Nhưng “cái khó ló cái khôn”, chính trong hoàn cảnh khó khăn tưởng như không có đường ra ấy, Đại hội VI của Đảng đã đề ra đường lối Đổi mới, mở ra một giai đoạn phát triển mạnh mẽ của đất nước. Công cuộc Đổi mới bắt đầu bằng “đổi mới tư duy”, tức là đổi mới về phương pháp tiếp cận trong nhận thức lý luận: Nhìn thẳng vào sự thật; dựa vào dân, coi trọng sáng kiến của nhân dân;coi trọng tổng kết thực tiễn; vượt qua những định kiến và sự bảo thủ trong nhận thức, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trên cơ sở kiên định con đường XHCN. Chính là dựa trên sự đổi mới về phương pháp ấy, Đảng ta đã nhìn nhận, đánh giá lại một cách toàn diện những bài học kinh nghiệm của các mô hình CNXH hiện thực trên thế giới cũng như của nước ta trong thời kỳ trước Đổi mới.Đó cũng là cơ sở để Đảng ta trở lại với những quan điểm quan trọng của Mác, Ăngghen và Lênin về quá độ lên CNXH, nhận thức ngày càng rõ hơn, đầy đủ hơn về tính chất, đặc điểm của thời kỳ quá độ lên CNXH.
Cương lĩnh 2011 chỉ ra rằng, công cuộc xây dựng CNXH là “một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Nhận thức lý luận ấy cùng với thực tế sinh động của đất nước chính là cơ sở để Đảng taxác định mô hình CNXH Việt Nam với 8 đặc trưng: 1) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; 2) Do nhân dân làm chủ; 3) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; 4) Có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; 5) Con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; 6) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; 7) Có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; 8) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Thành tựu lý luận của Đảng ta trong nhận thức về mô hình CNXH không tách rời việc xác định hệ mục tiêu với những giá trị cơ bản, quan trọng nhất mà Việt Nam hướng tới là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Để thực hiện được hệ mục tiêu đó, Đảng ta đã chỉ ra yêu cầu nắm vững và giải quyết đúng đắn 9 mối quan hệ lớn như là điều kiện cần thiết, đảm bảo thành công. Đó là, quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới về chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng XHCN; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN; giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Về công nghiệp hóa, hiện đại  hóa và thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là vấn đề đầu tiên, có nghĩa như phương thức quan trọng hàng đầu để hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước, xây dựng CNXH. Trên cơ sở những bài học thực tế của đất nước, những kinh nghiệm quốc tế và những thành tựu nghiên cứu lý luận nói chung, Đảng ta đã hình thành hệ thống lý luận về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề ra mục tiêu, nội dung và phương pháp tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp với điều kiện Việt Nam, bối cảnh thời đại và tuân theo quy luật chung của thế giới. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức và yêu cầu phát triển bền vững; xây dựng cơ cấu hợp lý đảm bảo sự phát triển hài hòa giữa các vùng, miền, khu vực; xây dựng nền kinh tế tự chủ, hội nhập quốc tế, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu; xử dụng và phát huy hiệu quả các nguồn lực phát triển đất nước.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành trong thời kỳ Đổi mới bắt đầu từ Đại hội VI và được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn. Đó là “nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước; là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN gắn liền với đặc trưng về kinh tế trong mô hình CNXH Việt Nam, trong đó xác định: “Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp”. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại, phát triển, cạnh tranh bình đẳng, hợp tác cùng phát triển theo pháp luật,trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Nhà nước khuyến khích mọi người dân làm giàu hợp pháp. Phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác. Nhà nướcphát triển hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội để bảo đảm công bằng và đời sống bền vững cho nhân dân.
Vượt qua những hạn chế, sai lầm của nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp thời kỳ trước Đổi mới, nhận thức lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự phát triển đầy sáng tạo, một thành tựu lý luận có ý nghĩa rất to lớn của Đảng ta. Đây chính là một cơ sở, điều kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,góp phần mang lại sự phát triển liên tục, mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta trong mấy thập niên vừa qua.
Về văn hóa, xã hội và con người
Nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một đặc trưng của mô hình XHCN được Đảng ta xác định từ Cương lĩnh 1991, một mục tiêu đặt ra để xây dựng, phát triển nền văn hóa Việt Nam. Nhận thức lý luận của Đảng về văn hóa là sự phát triển nhất quán từ luận điểm về các đặc trưng dân tộc, khoa học, đại chúng được đặt ra trong Đề cương văn hóa từ năm 1943. Trong quá trình cách mạng, nhất là trong Đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của văn hóa trong đời sống xã hội và trong xây dựng, phát triển đất nước. Văn hóa được xác định là “nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”. Mục tiêu phát triển văn hóa chính là nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì hạnh phúc và lợi ích chân chính của nhân dân, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người. Để thực hiện được mục đích ấy, Đảng chủ trương kế thừa, phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc trên thế giới; phát triển, nâng cao chất lượng sáng tạo văn học, nghệ thuật; phát triển nền báo chí, truyền thông tự do, hiện đại, phục vụ có hiệu quả cho nhu cầu ngày càng phong phú của nhân dân, cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh.
Trong quá trình Đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng về con người được bổ sung, hoàn thiện sâu sắc hơn, đầy đủ hơn. Con người được Đảng xác định là “trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển”, là mục tiêu quyết định duy nhất của phát triển, đồng thời cũng là động lực quan trọng nhất của phát triển. Con người có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với văn hóa; sự phát triển văn hóa không ngoài mục đích hoàn thiện nhân cách, nâng cao phẩm giá, thúc đẩy sự phát triển toàn diện chân, thiện, mỹ và đảm bảo hạnh phúc của con người. Để xây dựng, phát triển con người, Đảng chỉ ra yêu cầu “Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư”. Nói cách khác, cần phải tạo lập một môi trường xã hội văn hóa, văn minh, đồng bộ, toàn diện, đảm bảo cho những tác động tích cực nhằm giáo dục, dẫn dắt, bồi đắp những tình cảm, lối sống tốt đẹp cho con người, ngăn chặn những tác động tiêu cực, những yếu tố ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của mỗi con người, mỗi công dân.
Đảng đã phát triển những cơ sở lý luận cho việc giải quyết những vấn đề xã hội. Xuất phát từ nhận thức về mục tiêu của cuộc cách mạng và bản chất tốt đẹp của chế độ XHCN, Đảng chủ trương “thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách” trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Yêu cầu “tiến bộ và công bằng” được triển khai bao quát toàn diện các lĩnh vực xã hội, từ giáo dục, y tế, gia đình, môi trường, xóa đói giảm nghèo, đến an sinh, phúc lợi xã hội, thể dục thể thao, văn hóa giải trí, trật tự, an toàn xã hội, bảo đảm quyền con người, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội. Nhà nước giữ vai trò trung tâm, đồng thời động viên mọi nguồn lực xã hội cùng tham gia việc giải quyết các vấn đề xã hội, đảm bảo cho mọi người dân được thụ hưởng xứng đáng, công bằng những thành tựu của phát triển, Đổi mới, tạo lập một xã hội văn minh, hài hòa, mang lại hạnh phúc ngày càng nhiều hơn cho nhân dân.
Về quốc phòng, an ninh và đối ngoại
Trong thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc vì độc lập, tự do và thống nhất cho đất nước, hệ thống lý luận của Đảng về quân sự, an ninh đã đã được phát triển phong phú, là cơ sở cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng với 3 thứ quân, tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân toàn diện, làm nên những chiến công “chấn động địa cầu”. Trong điều kiện mới, khi mà hệ thống XHCN thế giới không còn nữa, bối cảnh chung của thế giới đã có những thay đổi sâu sắc, Đảng ta đã có những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận về tính chất, đặc điểm của hai nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa gìn an ninh quốc gia. Đặc biệt, quan điểm về đối tác, đối tượng là một nhận thức mới, phù hợp với tình hình thế giới với những mối quan hệ chính trị, lợi ích phức tạp, trong đóchỉ rõ, những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác.
Trên cơ sở nhận thức lý luận ấy, Đảng xác định việc củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, trong đó mục tiêu trọng yếu của quốc phòng, an ninh là: “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội”.
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu của quốc phòng, an ninh trong tình hình mới, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng thế trận quốc phòng toàndân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng an ninh; xây dựng sức mạnh tổng hợp của đất nước về chính trị, tư tưởng, kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Để bảo đảm nền tảng vững chắc cho quốc phòng, an ninh, Đảng chủ trương phát triển kinh tế - xã hội đi đôi với tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh; kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh. Về xây dựng lực lượng, Đảng chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; kết hợp giữa xây dựng lực lượng quân đội, công an chính quy, có sức chiến đấu cao với lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ, lực lượng an ninh bán chuyên trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật và phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc. Tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp của Đảng, sự quản lý thống nhất của Nhà nước đối với Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
Về lĩnh vực đối ngoại, Đường lối nhất quán của Đảng ta là độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giàu mạnh. Trong điều kiện thế giới đã có nhiều thay đổi, sự phát triển mới trong đường lối đối ngoại của Đảng ta chính là chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đường lối đối ngoại xây dựng trên cơ sở những đổi mới, sáng tạo trong nhận thức lý luận của Đảng thời gian qua đã mở ra điều kiện thuận lợi để đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, mở mang quan hệ ngoại giao, thúc đẩy sự phát triển kinh tế, chắt lọc tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Về phát huy dân chủ XHCN, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Trong quá trình Đổi mới, nhận thức của Đảng ta về dân chủ XHCN đã được phát triển ngày càng đầy đủ và toàn diện. Cương lĩnh 2011 của Đảng nhấn mạnh: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”. Từ nhận thức ấy, Đảng xác định phải từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đảm bảo dân chủ được thực thi một cách toàn diện, đầy đủ trong thực tế cuộc sống; dân chủ đồng thời gắn với kỷ luật, kỷ cương xã hội và phải được thể chế hóa và bảo đảm bằng hệ thống pháp luật. Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm các quyền con người, bảo đảm cho cuộc sống hạnh phúc và sự phát triển tự do của mỗi người dân. Nhân dân là chủ và thực quyền làm chủ của mình thông qua hoạt động của Nhà nước, hệ thống chính trị với các hình thức gián tiếp và trực tiếp. Xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trở thành nền tảng vững chắc cho sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc, đại diện và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các tầng lớp nhân dân và thực hiện dân chủ XHCN, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đảng chủ trương phát huy vai trò, sức mạnh của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, giáo dục đạo đức cách mạng, trách nhiệm, nghĩa vụ công dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Trên cơ sở những nguyên lý xây dựng đảng vô sản kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, bối cảnh chung của thế giới và đặc điểm cụ thể của Việt Nam, Đảng ta đã có những phát triển sáng tạo lý luận có ý nghĩa quan trọng về xây dựng Đảng, trong đó, vấn đề đầu tiên là nhận thức về tính chất của Đảng. Cương lĩnh 2011 xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. 
Trong nhận thức mới về tính chất của Đảng, sự trung thành với chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện lý tưởng cách mạng nhất quán theo định hướng XHCN của đảng Cộng sản Việt Nam; tính chất đại diện rộng rãi cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn dân tộc phù hợp với bối cảnh của thời kỳ quá độ và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đồng thời thể hiện tính dân chủ, nhân văn của một chính đảng cách mạng gắn bó máu thịt với nhân dân, với dân tộc. Đến lượt mình, nhận thức về tính chất của Đảng trở thành cơ sở cho Đảng đề ra và tổ chức thực hiện những chủ trương, giải pháp nhằm không ngừng xây dựng, chỉnh đốn Đảng một cách toàn diện về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, đạo đức tư cách đảng viên nhằm đáp ứng với yêu cầu của Đảng lãnh đạo, cầm quyền trong điều kiện mới.
Từ nhận thức về nhà nước chuyên chính vô sản đến nhận thức về nhà nước pháp quyền XHCN là bước phát triển lý luận đầy sáng tạo, vừa đảm bảo sự kiên định mục tiêu của cách mạng, phù hợp với những điều kiện, yêu cầu của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH,  vừa kế thừa hợp lý thành tựu phát triển nhận thức của nhân loại về nhà nước trong lịch sử lâu dài, cho phép tiếp thu được những kinh nghiệm thực tế về xây dựng, quản lý nhà nước của các quốc gia trong thế giới hiện đại. Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là nhà nước của dân, do dân và vì dân, mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan trong thực thi các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng hệ thống pháp luật ngày càng đầy đủ và hoàn thiện. Đặc biệt, Đảng nhấn mạnh mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân, yêu cầu trách nhiệm của Nhà nước với nhân dân: “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”.
*
Theo chỉ dẫn của V.I. Lênin được Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu và nhấn mạnh: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất coi trọng và không ngừng nâng cao nhận thức lý luận, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở cho việc hoạch định các chủ trương, đường lối, tổ chức lực lượng cách mạng, chỉ đạo các hoạt động thực tiễn, thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Đây chính là một vấn đề có tính quy luật, một trong những bài học quan trọng, điều kiện hàng đầu, không thể thiếu của những thắng lợi vĩ đại của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Sự nghiệp Đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước hơn 30 năm vừa qua không nằm ngoài tính quy luật ấy.
Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc là logic tất yếu, hệ quả không tách rời của những thành tựu của Đảng trong đổi mới nhận thức lý luận, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên CNXH và tính chất, đặc điểm về kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
 
(Nguồn: Tạp chí Tuyên giáo)
(Link:http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/nhung-thanh-tuu-ve-nhan-thuc-ly-luan-cua-dang-trong-thoi-ky-doi-moi-126506)

4. TỔ CHỨC ĐỢT HOẠT ĐỘNG “TUỔI TRẺ PHÚ YÊN TỰ HÀO
TIẾN BƯỚC DƯỚI CỜ ĐẢNG”
I. Thời gian: Từ tháng 9/2020 đến thời điểm tổ chức Đại hội XIII của Đảng (Quý I/2021).
II. NỘI DUNG
1. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XVII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
- Tuyên truyền sâu rộng về Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XVII, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng trên các phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, phát thanh truyền hình địa phương, trên Website, Facebook, pa-no, áp phích, băng rôn, bảng điện tử tại nơi công cộng và trụ sở làm việc của các cơ quan, đơn vị.
- Chi đoàn, đoàn cơ sở tổ chức đợt sinh hoạt chính trị theo chủ điểm với chủ đề Tuổi trẻ Phú Yên tự hào tiến bước dưới cờ Đảng” từ tháng 09/2020 đến tháng 01/2021 với các nội dung như: ôn lại truyền thống lịch sử vẻ vang của Đảng; tổ chức hoặc phối hợp gặp mặt, giao lưu với các thế hệ đảng viên lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam Anh hùng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, cán bộ, đảng viên tiêu biểu trên các lĩnh vực qua các thời kỳ.
- Tổ chức sinh hoạt chi đoàn chủ điểm góp ý dự thảo Văn kiện Đại hội XIII của Đảng; tổng hợp và báo cáo về đoàn cấp trên. Khuyến khích các đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình lấy ý kiến đoàn viên, thanh niên.
- Các cơ sở Đoàn tiếp tục thực hiện có hiệu quả cuộc vận động “Mỗi ngày một tin tốt, mỗi tuần một câu chuyện đẹp”, đặc biệt xây dựng các tuyến tin, bài viết về các gương điển hình thanh niên, đoàn viên ưu tú, đảng viên trẻ tiêu biểu trên các trang thông tin điện tử, các trang mạng xã hội của đơn vị.
- Tổ chức các hoạt động tuyên truyền ca khúc cách mạng với chủ đề ca ngợi Đảng, Bác Hồ, quê hương, đất nước từ cấp cơ sở đến cấp tỉnh.
2. Tổ chức các hoạt động chào mừng Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XVII, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2020), Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2020).
- Tổ chức các hoạt động thể dục, thể thao (ngày hội thanh niên, sinh viên khỏe; các giải thi đấu, giao lưu các môn thể thao); các hoạt động văn hoá, giải trí lành mạnh trong thanh thiếu nhi, tạo không khí thi đua sôi nổi chào mừng Đại hội Đảng các cấp, kỷ niệm 75 năm Ngày Cách mạng tháng Tám thành công (19/8/1945 - 19/8/2020) và Ngày Quốc khánh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (02/9/1945 - 02/9/2020).
- Tổ chức diễn đàn “Đảng với thanh niên, thanh niên với Đảng” phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, đơn vị. Tổ chức các chương trình giao lưu, đối thoại giữa lãnh đạo cấp ủy, chính quyền với đoàn viên, thanh niên; các buổi tọa đàm, hội thảo, sinh hoạt câu lạc bộ lý luận trẻ; hội thi, cuộc thi trực tuyến tìm hiểu về lịch sử Đảng, các kỳ Đại hội Đảng. Phát động thi đua trong đoàn viên, thanh thiếu nhi tiên phong, xung kích, tình nguyện, sáng tạo thực hiện các phong trào hành động cách mạng và chương trình của Đoàn gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại địa phương, cơ quan, đơn vị.
- Đăng ký đảm nhận và thực hiện công trình thanh niên gắn với các công trình dân sinh, phúc lợi xã hội, hỗ trợ nâng cao thể chất và đời sống văn hóa, tinh thần cho thanh thiếu nhi, gắn với xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh, xây dựng cơ quan, đơn vị văn hóa; hỗ trợ, giúp thanh niên nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ, khởi nghiệp và việc làm.
- Tổ chức các cuộc “Hành trình đến với địa chỉ đỏ - Địa danh lịch sử cách mạng” nhằm giáo dục truyền thống, lý tưởng cách mạng cho thanh thiếu nhi.
3. Nâng cao chất lượng các hoạt động của Đoàn tham gia xây dựng, bảo vệ Đảng và hệ thống chính trị.
- Nâng cao vai trò, sự chủ động của tổ chức Đoàn trong giới thiệu đoàn viên ưu tú cho Đảng xem xét kết nạp. Khảo sát, đánh giá về những vấn đề đặt ra trong công tác phát triển Đảng trong các đối tượng thanh niên; vai trò, mức độ tham gia của tổ chức Đoàn trong thực hiện quy trình kết nạp đảng viên mới.
- Tổ chức cho cán bộ, đoàn viên, thanh niên tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, phòng chống tham nhũng, lãng phí, phòng chống suy thoái về đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với hình thức phù hợp.
- Thực hiện giám sát, phản biện xã hội phù hợp với kế hoạch, yêu cầu của cơ quan, tổ chức cần phản biện và chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Đoàn. Chủ động, tích cực tham gia thực hiện giám sát xã hội về các chính sách, pháp luật liên quan đến tình hình thanh thiếu nhi địa phương.
- Câu lạc bộ Lý luận trẻ tại các địa phương, cơ quan, đơn vị tổ chức sinh hoạt định kỳ hằng tháng; tăng cường sinh hoạt chuyên đề với chủ đề Tuổi trẻ Phú Yên tự hào tiến bước dưới cờ Đảng; tăng số lượng các bài viết, quan điểm đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác lại các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng thông qua các cơ quan báo chí, truyền thông hiện đại, đặc biệt là trên không gian mạng.
III. HOẠT ĐỘNG CẤP TỈNH
1. Tổ chức Hội thi trực tuyến tìm hiểu lịch sử
- Thời gian: Dự kiến cuối tháng 8/2020.
- Nội dung: Thi trực tuyến tìm hiểu về lịch sử Cách mạng tháng Tám và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); tìm hiểu về lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Yên; tìm hiểu về Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên.
2. Chương trình Dạ hội tuổi trẻ chào mừng thành công Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Phú Yên lần thứ XVII.
- Thời gian: Ngay sau khi kết thúc Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Yên.
- Địa điểm: Dự kiến Hội trường Trung tâm hoạt động Thanh thiếu nhi Phú Yên (Đường Nguyễn Hữu Thọ, phường 9, Tp. Tuy hòa).
3. Chương trình “Tuổi trẻ Phú Yên với biển đảo quê hương”
- Thời gian: Dự kiến tháng 10/2020.
- Địa điểm: Dự kiến tại huyện Tuy An.
- Nội dung, hình thức: Cấp chứng minh nhân dân cho bà con vùng biển; trao tặng cờ Tổ quốc; ra quân làm sạch biển; chương trình văn nghệ về biển đảo quê hương; trao tặng quà cho thiếu nhi có hoàn cảnh khó khăn vượt khó học tốt.
4. Tổ chức Ngày hội thanh niên với văn hóa giao thông.
- Thời gian dự kiến: Tháng 9/2020.
- Địa điểm: Thành phố Tuy Hòa.
- Nội dung: Tổ chức lễ ra quân, diễu hành tuyên truyền, hội thi tìm hiểu kiến thức về an toàn giao thông…
5. Tổ chức Ngày hội thanh niên tôn giáo tỉnh Phú Yên năm 2020.
- Thời gian: Tháng 9/2020.
- Địa điểm: Thành phố Tuy Hòa
- Nội dung: Đi bộ đồng hành, ra quân vệ sinh môi trường, tổ chức các trò chơi vận động tập thể, teambuilding, trưng bày ảnh, mời báo cáo viên báo cáo về các chuyên đề thời sự, tình hình tôn giáo, giao lưu bóng đá, văn hóa văn nghệ,…
6. Tổ chức Ngày hội văn hóa, thể dục thể thao thanh niên các dân tộc thiểu số tỉnh Phú Yên.
- Thời gian: Tháng 11/2020.
- Địa điểm: Dự kiến huyện Sơn Hòa.
- Thành phần: Đoàn viên, thanh niên 03 huyện miền núi Sơn Hòa, Sông Hinh và Đồng Xuân.
7. Tổ chức Liên hoan Tuổi trẻ sáng tạo tỉnh Phú Yên năm 2020.
- Thời gian: Tháng 10/2020.
- Địa điểm: Dự kiến Trung tâm Hoạt động Thanh thiếu nhi Phú Yên (đường Nguyễn Hữu Thọ, phường 9, Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên).
- Nội dung: Tổ chức trưng bày, triển lãm các sản phẩm sáng tạo của thanh niên, giao lưu, tọa đàm với các chuyên gia, tập huấn, trang bị kiến thức, kỹ năng thúc đẩy khả năng tư duy, sáng tạo của thanh niên…
8. Tổ chức Giải bóng đá truyền thống của Thanh niên tỉnh Phú Yên.
- Thời gian: Dự kiến tháng 9/2020.
- Địa điểm: Thành phố Tuy Hòa.
9. Ngày hội sáng tạo trong học sinh, sinh viên và tuyên dương “Nhà giáo trẻ tiêu biểu” năm 2020.
- Thời gian: Dự kiến tháng 10/2020.
- Địa điểm: Trường Cao đẳng Công thương Miền Trung.
10. Chương trình Vinh danh sinh viên Phú Yên tiêu biểu.
- Thời gian: Dự kiến tháng 01/2020.
- Địa điểm: Hội trường Trung tâm hoạt động Thanh thiếu nhi Phú Yên, (Đường Nguyễn Hữu Thọ, phường 9, Tp. Tuy hòa).
5. NHỮNG HÀNH VI VI PHẠM TRONG PHÒNG, CHỐNG DỊCH COVID-19

6. NHIỀU CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ NGÀY 01/9/2020
Quy định mới về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại; mang thai hộ vì mục đích thương mại bị phạt từ 5-10 triệu đồng; giáo viên được nghỉ hè 8 tuần; quy định mới về mức hỗ trợ khám, chữa bệnh nghề nghiệp; quy định mới về chế độ làm việc của giảng viên đại học... là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 9/2020.
Nghị định số 80/2020/NĐ-CP ban hành ngày 8/7/2020 của Chính phủ về quản lý và sử dụng viện trợ không hoàn lại không thuộc hỗ trợ phát triển chính thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài dành cho Việt Nam có hiệu lực từ ngày 17/09/2020.
Theo Nghị định, việc quản lý và sử dụng viện trợ phải đảm bảo các nguyên tắc: Các khoản viện trợ chỉ được tiếp nhận, thực hiện, sử dụng khi đã được cấp có thẩm quyền của Việt Nam phê duyệt. Nguồn tiền viện trợ phải là nguồn tiền, tài sản hợp pháp; không tiếp nhận những hàng hóa (kể cả vật tư, thiết bị) thuộc danh mục các mặt hàng cấm nhập khẩu theo quy định của pháp luật; cơ quan chủ quản chịu trách nhiệm toàn diện trong quản lý và sử dụng hiệu quả khoản viện trợ.
Nghị định cấm các hành vi: Sử dụng viện trợ để phục vụ mục đích rửa tiền, tài trợ khủng bố, trốn thuế, xâm hại đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xâm hại đạo đức xã hội, thuần phong, mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc...
Sửa đổi, bổ sung một số quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp
Có hiệu lực từ ngày 1/9/2020, Nghị định số 81/2020/NĐ-CP ban hành ngày 9/7/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP ngày 4/12/2018 quy định về phát hành trái phiếu doanh nghiệp; trong đó sửa đổi khoản 8 Điều 6 về giao dịch trái phiếu.
Cụ thể, trái phiếu doanh nghiệp phát hành tại thị trường trong nước bị hạn chế giao dịch trong phạm vi dưới 100 nhà đầu tư không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, trong vòng một năm kể từ ngày hoàn thành đợt phát hành trừ trường hợp theo quyết định của Tòa án hoặc thừa kế theo quy định của pháp luật. Sau thời gian nêu trên, trái phiếu doanh nghiệp được giao dịch không hạn chế về số lượng nhà đầu tư, trừ trường hợp doanh nghiệp phát hành có quyết định khác. Trái phiếu doanh nghiệp phát hành ra thị trường quốc tế thực hiện theo quy định về giao dịch tại thị trường phát hành.
Mang thai hộ vì mục đích thương mại bị phạt từ 5-10 triệu đồng
Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ban hành ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu lực từ ngày 1/9/2020.
Trong đó, hành vi thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, sinh sản vô tính, mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ bị phạt từ 5-10 triệu đồng.
 
`Theo Nghị định, đối với hành vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn, phạt tiền từ 1-3 triệu đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng cho người chưa đủ tuổi kết hôn; phạt tiền từ 3-5 triệu đồng đối với hành vi duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi kết hôn mặc dù đã có bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án.
Giáo viên được nghỉ hè 8 tuần
`Nghị định số 84/2020/NĐ-CP ban hành ngày 17/07/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giáo dục có hiệu lực từ ngày 01/09/2020.
Theo đó, thời gian nghỉ hè hằng năm của giáo viên cơ sở giáo dục mầm non, cơ sở giáo dục phổ thông, trường chuyên biệt là 8 tuần, bao gồm cả nghỉ phép hằng năm.
Thời gian nghỉ hè hằng năm của giáo viên trường trung cấp và giảng viên trường cao đẳng là 6 tuần, bao gồm cả nghỉ phép hằng năm. Còn đối với giảng viên cơ sở giáo dục đại học thì thời gian nghỉ hè thực hiện theo quy chế tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục đại học.
Quy định thi tuyển phương án kiến trúc
Nghị định 85/2020/NĐ-CP ban hành ngày 17/07/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Kiến trúc có hiệu lực từ ngày 07/09/2020, trong đó quy định thi tuyển phương án kiến trúc.
Theo đó, có hai hình thức thi tuyển là thi tuyển rộng rãi và thi tuyển hạn chế. Cụ thể, thi tuyển rộng rãi là hình thức tổ chức cuộc thi không hạn chế số lượng tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài (nếu cần thiết) tham gia thi tuyển.
Thi tuyển hạn chế là hình thức tổ chức cuộc thi được áp dụng trong trường hợp chỉ có một số tổ chức, cá nhân tham gia thi tuyển (nhưng không dưới 3 tổ chức, cá nhân) đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật hoặc tính đặc thù của công trình thi tuyển phương án kiến trúc.
Giới hạn tuổi tàu biển được đăng ký tại Việt Nam
Có hiệu lực từ ngày 15/9/2020, Nghị định số 86/2020/NĐ-CP ban hành ngày 23/07/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 171/2016/NĐ-CP ngày 27/12/2016 của Chính phủ về đăng ký, xóa đăng ký và mua, bán, đóng mới tàu biển.
Trong đó, Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 1 và khoản 4 Điều 7 về giới hạn tuổi tàu biển được đăng ký tại Việt Nam. Cụ thể, tuổi của tàu biển, tàu ngầm, tàu lặn, kho chứa nổi, giàn di động mang cờ quốc tịch nước ngoài đã qua sử dụng khi đăng ký tại Việt Nam được thực hiện theo quy định sau:
a- Tàu khách, tàu ngầm, tàu lặn: không quá 10 năm.
b- Các loại tàu biển khác, kho chứa nổi, giàn di động: không quá 15 năm.
c- Trường hợp đặc biệt do Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải quyết định nhưng không quá 20 năm và chỉ áp dụng đối với các loại tàu chở hóa chất, chở khí hóa lỏng, chở dầu hoặc kho chứa nổi.
Quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến
Nghị định 87/2020/NĐ-CP ban hành ngày 28/07/2020 của Chính phủ quy định về Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến có hiệu lực từ ngày 15/09/2020.
Nghị định này quy định về việc xây dựng, quản lý, cập nhật, khai thác, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cổng dịch vụ công quốc gia, Cổng dịch vụ công, Hệ thống thông tin một cửa điện tử cấp tỉnh, Cơ sở dữ liệu khác của bộ, ngành, địa phương; cấp bản sao trích lục hộ tịch, xác nhận thông tin hộ tịch; đăng ký hộ tịch trực tuyến.
Quy định mới về mức hỗ trợ khám, chữa bệnh nghề nghiệp
Có hiệu lực từ ngày 15/09/2020, Nghị định 88/2020/NĐ-CP ban hành ngày 28/07/2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động về bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp bắt buộc, trong đó quy định hỗ trợ khám bệnh, chữa bệnh nghề nghiệp.
Cụ thể, người sử dụng lao động được hỗ trợ kinh phí để khám bệnh nghề nghiệp cho người lao động theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 56 Luật An toàn, vệ sinh lao động khi người lao động có đủ các điều kiện sau đây:
1- Có thời gian đóng bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đủ từ 12 tháng trở lên và đang tham gia tính đến tháng liền kề trước tháng đề nghị hỗ trợ kinh phí khám bệnh nghề nghiệp cho người lao động.
2- Đã được phát hiện bệnh nghề nghiệp tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.
Về mức hỗ trợ kinh phí khám bệnh nghề nghiệp, mức hỗ trợ bằng 50% chi phí khám bệnh nghề nghiệp tính theo biểu giá khám bệnh nghề nghiệp do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành tại thời điểm người lao động khám bệnh nghề nghiệp sau khi đã được bảo hiểm y tế chi trả, nhưng không quá 800 nghìn đồng/người/lần khám.
Số lần hỗ trợ tối đa đối với mỗi người lao động là 2 lần và trong 1 năm chỉ được nhận hỗ trợ 1 lần.
Sử dụng kinh phí duy tu, bảo dưỡng và xử lý cấp bách sự cố đê điều
Thông tư 68/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định quản lý, sử dụng và thanh quyết toán kinh phí chi thường xuyên thực hiện duy tu, bảo dưỡng đê điều và xử lý cấp bách sự cố đê điều có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/9/2020.
Quy định mới về chế độ làm việc của giảng viên đại học
Có hiệu lực thi hành từ 11/9/2020, Thông tư số 20/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chế độ làm việc của giảng viên cơ sở giáo dục đại học, trong đó bổ sung một số nội dung mới về định mức giờ chuẩn giảng dạy và nghiên cứu khoa học của giảng viên.
Theo đó, Thông tư 20/2020/TT-BGDĐT bổ sung quy định cụ thể thời gian làm việc của giảng viên trong năm học là 44 tuần (tương đương 1.760 giờ hành chính) để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học, phục vụ cộng đồng và thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn khác, được xác định theo năm học sau khi trừ số ngày nghỉ theo quy định.
Để phù hợp với năng lực giảng dạy, nghiên cứu khoa học của mỗi giảng viên, chiến lược phát triển của mỗi nhà trường, tăng cường thực hiện quyền tự chủ của các trường, Thông tư cũng quy định linh hoạt định mức giờ chuẩn và nghiên cứu khoa học, giao thủ trưởng cơ sở giáo dục đại học căn cứ vào thực tế của đơn vị; mục tiêu, chiến lược phát triển nhà trường; đặc thù của môn học, ngành học để quyết định định mức giờ chuẩn của giảng viên trong một năm học cho phù hợp.
Biện pháp bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức
Bộ Nội vụ ban hành Thông tư số 03/2020/TT-BNV quy định chi tiết về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, biện pháp bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/9/2020.
Thông tư nêu rõ, bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức là việc bảo vệ công việc gắn với chức danh, chức vụ, vị trí việc làm của cán bộ, công chức; công việc hoặc nhiệm vụ gắn với chức danh nghề nghiệp hoặc chức vụ quản lý của viên chức trong quá trình giải quyết tố cáo.
Người có thẩm quyền giải quyết tố cáo áp dụng biện pháp bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân được người có thẩm quyền giải quyết tố cáo yêu cầu hoặc đề nghị thực hiện biện pháp bảo vệ vị trí công tác của người tố cáo là cán bộ, công chức, viên chức trong trường hợp người tố cáo đó không thuộc thẩm quyền quản lý của người có thẩm quyền giải quyết tố cáo.
Theo baochinhphu.vn
 Biên soạn: Ban Tuyên giáo Tỉnh Đoàn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây